ÂM MƯU NGÀY TẬN THẾ (Sidney Sheldon)

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Sidney Sheldon
ÂM MƯU NGÀY TẬN THẾ​
Dịch giả : Nguyễn Bá Long​
Lời nói đầu
Nguyên bản tiếng Anh DOOMSDAY CONSPIRACY, Nhà xuất bản Happer Collins, Anh (1990)​

ammuungaytanthe.jpg

Uctendort. Thuỵ Sĩ


Chủ nhật, 14 tháng Mười, lúc 15 giờ 00


Các nhân chứng đứng trên rìa hiện trường, nhìn trân trối trong im lặng, không thể nói gì vì quá sửng sốt. Quang cảnh trước mắt họ thật kỳ dị, một cơn ác mộng hoang sơ xuất xứ từ đâu đó sâu kín, tối tăm trong tiềm thức tập thể của người nguyên thuỷ. Mỗi nhân chứng có một phản ứng khác nhau.

Người thứ nhất ngất đi. Người thứ hai nôn oẹ. Một phụ nữ run lên bần bật. Một người khác thì nghĩ: Mình sắp lên cơn đau tim mất. Vị tu sĩ già nắm lấy chuỗi hạt và đưa tay làm dấu. Hãy giúp con, thưa Cha. Hãy giúp tất cả chúng con. Hãy che chở cho chúng con trước sự hiện hình của quỷ dữ. Sau cùng thì tất cả chúng con đều đã nhìn thấy bộ mặt của Satăng. Đó là ngày tận thế. Ngày phán xử đã đến.
Trận chiến cuối cùng là đây… Trận chiến đấu cuối cùng… Trận chiến đấu cuối cùng giữa cái thiện và cái ác.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 1
Nguyên bản tiếng Anh DOOMSDAY CONSPIRACY, Nhà xuất bản Happer Collins, Anh (1990)​

Ngày thứ nhất.
Thứ hai, 15 tháng Mười
- Anh lại thấy mình trong cái quân y viện chật chội ở căn cứ Củ Chi, Việt Nam và Susan đang cúi người trên giường anh, trông thật đáng yêu trong chiếc áo choàng trắng, thì thầm, "Tỉnh dậy nào, chàng thuỷ thủ. Anh đâu có muốn chết!".
Và khi nghe thấy giọng nói đầy quyến rũ của cô, anh gần như quên đi sự đau đớn của mình. Cô đang thì thầm điều gì đó nữa bên tai anh, nhưng một cái chuông nào đó đang réo vang, và anh không thể nghe rõ cô nói gì. Anh đưa tay kéo cô lại gần nhưng bàn tay chỉ quờ vào một khoảng không.
Chính tiếng chuông điện thoại đã làm Robert Bellamy tỉnh hẳn. Anh miễn cưỡng mở mắt, không muốn giấc mơ qua đi. Chiếc điện thoại bên cạnh giường vẫn réo dai dẳng. Anh nhìn đồng hồ, 4 giờ sáng. Anh chụp lấy máy, bực bội vì ngủ dỡ mắt, giấc mơ ngắt quãng.
- Quỷ quái thật, có biết mới là mấy giờ không hả?
- Ông chỉ huy Bellamy phải không?
- Phải.
- Tôi có một tin báo cho ông, ông chỉ huy. Ông được lệnh phải trình diện tướng Hilliard tại trụ sở Cục An ninh Quốc gia (NSA) ở Fort Meade vào đúng 6 giờ sáng. Ông đã nghe rõ chưa, thưa ông chỉ huy?
- Rồi. Và chưa. Phần lớn là chưa rõ.
Robert Bellamy chậm chạp đặt ống nghe xuống, trầm ngâm. Chuyện quái gì mà NSA đòi anh thế nhỉ?
Và chuyện gì gấp gáp đến mức phải gặp vào lúc 6 giờ sáng? Anh lại nằm xuống và nhắm mắt lại, cố tìm lại giấc mơ. Giấc mơ giống như thật. Tất nhiên anh biết điều gì đã khiến giấc mơ xuất hiện. Susan vừa gọi điện cho anh tối hôm trước.
- Robert…
Như từ bao giờ vẫn vậy, giọng nói của cô luôn có tác động đến anh. Anh run run thở mạnh.
- Chào Susan.
- Mọi chuyện bình thường cả chứ, anh Robert?
- Tất nhiên. Tuyệt vời. Moneybags thế nào?
- Thôi đừng, anh.
- Thôi được. Thế Monte Banks thế nào?
Anh đã không thể nói "chồng em". Anh ta là chồng cô ấy, Susan.
- Anh ấy khoẻ. Em chỉ muốn nói với anh là chúng ta sắp phải xa nhau một thời gian. Em không muốn anh phải lo lắng.
Thật đúng là cô ấy, đúng là Susan. Anh cố giữ giọng nói bình tĩnh.
- Lần nầy em đi đâu vậy?
- Bọn em bay qua Brasil.
Trên chiếc Boeing 727 của Moneybags.
- Monte có chút công việc ở đó mà.
- Thật ư? Anh nghĩ là chồng em sở hữu cả quốc gia đó.
- Thôi đi Robert. Xin anh.
- Xin lỗi.
Một giây im lặng.
- Em mong anh tỏ ra dễ chịu hơn.
- Nếu em có ở đây thì hẳn là thế.
- Em muốn anh tìm được một ai đó thật tuyệt vời, và anh hạnh phúc.
- Susan, anh đã tìm được một người tuyệt vời. - Cổ họng anh tắt nghẹn. - Và em biết chuyện gì xảy ra không? Anh đã mất cô ấy.
- Nếu anh cứ còn nói thế, em sẽ không gọi anh nữa đâu.
Đột nhiên, anh cảm thấy sợ hãi.
- Đừng nói thế. Đừng, em?
Với anh, cô là chiếc phao cứu sinh. Anh không thể chịu nổi ý nghĩ rằng không bao giờ được nói chuyện với cô nữa. Anh cố tỏ ra vui vẻ.
- Anh sẽ ra ngoài và kiếm một cô tóc vàng thật khêu gợi để rồi cùng làm tình cho đến bã người ra thì thôi.
- Em muốn anh kiếm được một ai đó.
- Anh hứa với em đấy.
- Em lo cho anh, em yêu anh!
- Không cần thiết. Anh thật sự bình thường. - Anh nghẹn lời với lời nói đối của chính mình. Giá mà cô biết sự thật. Nhưng anh không thể nào mang chuyện của mình ra bàn với ai. Đặc biệt là Susan. Anh không thể chịu được ý nghĩ về sự buồn khổ của cô.
- Từ Brasil, em sẽ gọi điện cho anh. - Susan nói.
Một lúc im lặng. Họ không thể rời nhau ra bởi vì có quá nhiều điều để nói, quá nhiều thứ tốt hơn là không nên nói đến, không được nói đến.
- Anh Robert, em phải đi đây.
- Susan?
- Dạ.
- Anh yêu em. Anh sẽ luôn luôn yêu em!
- Em biết. Em cũng yêu anh, Robert.
Và đó chính là điều mỉa mai cay đắng. Họ vẫn yêu nhau đến thế.
Hai người thật đẹp đôi, tất cả bạn bè họ đều đã nói như vậy. Điều gì đã làm đảo lộn tất cả?
Robert Bellamy ra khỏi giường và đi ngang căn phòng khách vắng lặng với đôi chân trần. Căn phòng gợi nhớ sự vắng bóng của Susan. Quanh phòng là hàng chục tấm ảnh của Susan và anh, những hình ảnh đọng lại. Hai người đi câu cá ở vùng cao nguyên Scotland, trước một tượng Phật trên đất Thái Lan, trên một cỗ xe ngựa chạy trong mưa qua những khu vườn Borghese ở Rome. Và trong mỗi tấm ảnh, họ đều đang cười và ôm chặt lấy nhau, hai con người đang yêu nhau nồng thắm.
Anh đi vào phòng bếp đặt một bình cà phê. Đồng hồ chỉ 4 giờ 15. Anh lưỡng lự giây lát, rồi nhấc điện thoại quay số. Sáu hồi chuông réo và sau cùng anh nghe thấy tiếng Đô đốc Whittaker ở đầu dây đằng kia.
- Hêlô.
- Thưa Đô đốc.
- Gì vậy?
- Đây là Robert. Tôi thật xin lỗi vì đã đánh thức ngài. Tôi vừa có một cú điện thoại khá kỳ lạ từ Cục an ninh quốc gia.
- NSA à? Họ muốn gì vậy?
- Tôi không biết. Tôi được lệnh trình diện tướng Hilliard vào lúc 6 giờ.
Một thoáng im lặng trầm ngâm.
- Có thể là người ta định chuyển anh sang đó.
- Không thể thế được. Điều đó thật vô lý. Sao họ lại…
- Robert, rõ ràng là có chuyện gì đấy khẩn cấp.
- Sao anh không gọi lại cho tôi sau cuộc gặp nhỉ?
- Tôi sẽ gọi. Cảm ơn ngài.
Cuộc đối thoại chấm dứt. Robert nghĩ: lẽ ra mình không nên làm phiền ông già. Đô đốc đã rời chức vụ đứng đầu Tình báo hải quân để nghỉ hưu từ hai năm trước đây. Bị buộc phải nghỉ hưu thì đúng hơn. Người ta bàn tán rằng để an ủi, Bộ Hải quân đã dành cho ông một văn phòng nhỏ ở đâu đó để ngồi chơi xơi nước với mấy thứ công việc vớ vẩn. Giờ đây, ông Đô đốc không hề biết gì về những hoạt động tình báo hiện nay. Nhưng ông là thầy của Robert. Ông là người gần gũi với Robert hơn bất kỳ ai trên thế gian nầy, tất nhiên là không kể Susan. Mà Robert thì cần phải nói chuyện với ai đó. Với việc Susan ra đi, anh cảm thấy hoàn toàn mất thăng bằng và luôn tưởng tượng rằng ở một nơi nào đó, trong một thời gian và không gian khác, anh và Susan vẫn đang là một cặp vợ chồng hạnh phúc, cười đùa vô tư và yêu thương nhau. Hoặc có thể là không, Robert mệt mỏi nghĩ. Có thể do mình đã không biết khi nào nên dừng lại.
Cà phê đã xong. Vị đắng ngắt. Anh băn khoăn không biết liệu có phải nó được nhập về từ Brasil hay không nữa.
Anh mang theo ly cà phê vào phòng tắm và ngắm mình trong gương. Anh đang nhìn vào một người đàn ông ở độ tuổi bốn mươi, cao to và khoẻ mạnh, khuôn mặt rắn rỏi, cái cằm khoẻ, mái tóc đen và cặp mắt sẫm, sắc sảo, thông minh. Trên ngực anh là một vết sẹo dài và sâu, kỷ niệm vụ máy bay rơi. Nhưng đó là ngày hôm qua. Đó là Susan. Còn lúc nầy là hôm nay. Không có Susan. Anh cạo râu, tắm và rồi bước lại tủ quần áo. Mình mặc gì nhỉ, anh băn khoăn. Đồng phục Hải quân hay đồ dân sự? Mà nào ai quan tâm đâu nhỉ? Anh khoác lên người bộ complê màu tàn thuôc lá cùng với chiếc sơmi trắng và chiếc càvạt màu lục lam. Anh biết rất ít về Cục An ninh quốc gia, chỉ biết cái Dinh Thự bí mật đó, như người ta đặt tên lóng cho nó, đã thay thế cho tât cả các cơ quan tình báo khác của nước Mỹ và là cơ quan bí mật nhất trong tất cả số đó. Họ muốn gì ở mình? Mình sẽ biết ngay thôi mà.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
ÂM MƯU NGÀY TẬN THẾ​
Dịch giả : Nguyễn Bá Long​
Chương 2

Cục An ninh quốc gia nằm ẩn mình kín đáo trong một cánh rừng hoang rộng tám mươi hai mẫu ở Fort Meade, bang Maryland, với hai toà nhà lớn gấp đôi khu trụ sở CIA ở Langley, bang Virginia. Cơ quan nầy được lập ra nhằm giúp đỡ kỹ thuật để bảo vệ các kênh thông tin của nước Mỹ và thu lượm các số liệu tình báo điện tử trên khắp thế giới, hoạt động khủng khiếp đến mức mỗi ngày nó sản sinh ra chừng bốn mươi tấn tài liệu.
Khi Robert Bellamy đến cổng thì trời vẫn còn tối. Anh cho xe đỗ sát bờ tường cao tới hai mét rưỡi, còn căng dây thép gai phía trên. Một bốt gác đặt ở đó với hai người bảo vệ có vũ trang. Một người lính đứng lại bên trong nhìn ra trong lúc người kia tiến đến bên chiếc xe.
- Tôi có thể giúp gì cho ông?
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy tới gặp tướng Hilliard.
- Xin ông cho xem giấy tờ, ông chỉ huy?
Robert Bellamy móc ví và lấy tấm thẻ căn cước của anh có ghi Phòng 17 Tình báo hải quân. Người lính gác xem tấm thẻ một cách cẩn thận và đưa trả lại cho anh.
- Cảm ơn ông chỉ huy.
Anh ta gật đầu với người lính đứng trong bốt gác, và cánh cổng mở ra. Người lính gác phía trong nhấc điện thoại.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy đang trên đường vào.
Một phút sau, Robert Bellamy tiến đến trước một chiếc cổng điện đóng kín bưng.
Một người lính gác tiến đến bên chiếc xe.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy phải không?
- Đúng vậy.
- Xin phép được xem giấy tờ của ông?
Anh đã toan phản đối nhưng rồi lại nghĩ. Thây kệ. Đây là lãnh địa của họ mà. Anh lại móc ví ra và đưa tấm thẻ cho người lính.
- Cảm ơn ông chỉ huy. - Người lính làm một tín hiệu nào đó không rõ, và cánh cổng mở ra.
Khi Robert Bellamy lái xe tiến vào, anh lại nhìn thấy một bức tường bảo vệ thứ ba ở trưóc mặt. Lạy Chúa, anh nghĩ, mình đang ở trong vùng cấm rồi.
Một người gác mặc quân phục khác bước lại bên chiếc xe. Khi Robert Bellamy đưa tay để lấy chiếc ví ra thì người gác nhìn biển số xe và nói:.
- Xin chạy thẳng tới toà nhà điều hành, thưa ông chỉ huy. Sẽ có người đón ông tại đó.
- Cám ơn.
Cánh cổng mở ra, và Robert cứ theo đường xe chạy, tới bên một toà nhà khổng lồ trắng toát. Một người đàn ông mặc đồ dân sự đang đứng đợi phía bên ngoài, run lên vì những cơn gió lạnh của tháng mười.
- Ông chỉ huy, ông có thể để xe ở ngay đó. Chúng tôi sẽ lo sau. - Anh ta gọi to.
Robert Bellamy để chìa khoá lại trong xe và bước ra. Người đàn ông đứng đón anh chừng ba mươi tuổi, dáng cao, gầy, nước da mai mái.
- Tôi là Harrison Keller. Tôi sẽ đưa ông đến phòng làm việc của tướng Hilliard.
Họ đi vào một phòng tiền sảnh lớn, trần nhà cao.
Một người đàn ông mặc đồ dân sự đang ngồi sau chiếc bàn.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy.
Robert Bellamy quay người lại. Anh nghe tiếng kêu tách của một chiếc máy ảnh.
- Cám ơn ngài.
- Cái gì? - Robert Bellamy quay sang Keller.
- Chỉ mất một phút thôi. - Keller đoán chắc với anh.
Sáu mươi giây sau, Robert Bellamy được trao cho một tấm phù hiệu nhận dạng màu xanh trắng với ảnh của anh trên đó.
- Xin ông đeo tấm phù hiệu nầy liên tục trong thời gian ông ở trong toà nhà nầy, ông chỉ huy.
Được. Họ bắt đầu đi theo một hành lang dài, sơn màu trắng, Robert Bellamy thấy những chiếc camêra bảo vệ được đặt cách nhau chừng sáu mét dọc theo cả hai bên hành lang.
- Toà nhà nầy có lớn lắm không?
- Khoảng hơn hai trăm ngàn mét vuông, thưa ông chỉ huy…
- Thế cơ à?
- Dạ. Cái hành lang nầy là hành lang dài nhất thế giới - ba trăm hai mươi lăm mét. Chúng tôi hoàn toàn tự nhốt mình ở đây. Tại đây có một trung tâm mua bán, tiệm cà phê, trạm bưu điện, tám Snackbar, một bệnh viện kèm theo một phòng mổ, một phòng khám nha khoa, một chi nhánh ngân hàng nhà nước của vùng Laurel, một tiệm giặt là, một tiệm giầy, một hiệu cắt tóc và một vài cửa hàng linh tinh khác nữa.
Một cái nhà ở xa của mình, Robert nghĩ. Anh cảm thấy chán nản một cách kỳ lạ.
Họ đi ngang qua một khu vực rộng lớn đầy những máy tính điện tử. Robert dừng chân, kinh ngạc.
- Một ấn tượng mạnh, phải không ạ? Đó mới chỉ là một trong số những phòng máy tính của chúng tôi. Hệ thống nầy gồm những máy giải mã và những máy tính trị giá 3 tỉ đôla.
- Có tất cả bao nhiêu người làm việc ở đây?
- Khoảng mười sáu ngàn.
Anh được dẫn vào chiếc thang máy, loại dành riêng, mà Keller sử dụng với một chìa khoá. Họ đi lên tầng trên và bắt đầu theo một lối khác trên dãy hành lang dài cho tới khi họ tới khu phòng làm việc ở phía cuối hành lang.
- Ngay trong nầy thôi, ông chỉ huy.
Họ bước vào một phòng đợi lớn, với bốn bàn thư ký. Hai trong số thư ký đã đến làm việc. Harrison Keller gật đầu với một trong hai người, và cô ta bấm một cái nút. Cánh cửa dẫn vào căn phòng phía trong bật mở.
- Xin mời vào, thưa quý vị. Tướng quân đang đợi các ông.
- Đi lối nầy. - Harrison Keller nói.
Robert Bellamy lặng lẽ theo anh ta. Anh thấy mình bước vào căn phòng rộng lớn, trần nhà và tường đều được bọc một lớp cách âm dầy. Căn phòng đầy đủ tiện nghi, với nhiều những bức ảnh và vật kỷ niệm có tính chất cá nhân. Rõ ràng là người đàn ông ngồi sau chiếc bàn kia đã ở đây khá lâu rồi.
Tướng Mark Hilliard, phó giám đốc NSA, có vẻ chừng giữa tuổi 50, dáng rất cao, khuôn mặt nổi bật với cặp mắt giá lạnh, sắt đá, tư thế đĩnh đạc. Ông tướng mặc một bộ complê mà xám, chiếc sơmi trắng và càvạt xám. Mình đã đoán đứng, Robert nghĩ.
Harrison Keller cất tiếng:
- Báo cáo tướng Hilliard, đây là sĩ quan chỉ huy Bellamy.
- Cảm ơn ông đã ghé qua, ông sĩ quan.
Cứ như là một lời mời đên dự bữa tiệc trà vậy.
Hai người đàn ông bắt tay nhau.
- Mời ngồi. Tôi xin cược là ông muốn dùng một ly cà phê.
Ông ta đọc được ý nghĩ người khác.
- Vâng, thưa ngài.
- Còn Harrison?
- Không, cảm ơn ngài. - Anh ta ngồi xuống một chiếc ghế dựa ở góc phòng.
Một nút bấm được ấn xuống, cánh cửa mở ra, một người phương Đông mặc đồng phục bước vào với một khay cà phê và bánh nướng Đan Mạch. Robert để ý thấy anh ta không đeo phù hiệu nhận dạng. Thật tệ.
Cà phê được rót ra. Mùi thơm ngào ngạt.
- Ông uống thế nào nhỉ? - Tướng Hilliard hỏi.
- Uống đen ạ. - Ly cà phê thật ngon.
Hai người đàn ông ngồi đối diện nhau, trên những chiếc ghế da mềm.
- Ngài giám đốc yêu cầu tôi gặp ông.
Ngài giám đốc, Edward Sanderson. Một nhân vật huyền thoại trong nghề gián điệp. Một nghệ sĩ rối, bậc thầy, tài ba và nhẫn tâm, nổi danh với vỉệc tổ chức hàng chục cuộc đảo chính táo bạo trên khắp thế giới ít khi người ta nhìn thấy ông xuất hiện trước công chúng mà chỉ thầm thì nói về ông ta ở chốn riêng tư.
- Ông đã ở phòng 17 ngành tình báo hải quân bao lâu rồi, ông sĩ quan? - Tướng Hilliard hỏi.
- Mười lăm năm. Robert không úp mở. Anh dám đánh cược cả tháng lương rằng ông tướng có thể nói chính xác ngày anh gia nhập ONI.
- Trước đó, tôi tin là ông đã chỉ huy một phi đội máy bay của Hải quân ở Việt Nam.
- Thưa ngài, vâng.
- Ông đã bị bắn rơi. Họ không nghĩ là ông có thể qua khỏi.
Tay bác sĩ nói: "Hãy quên anh ta đi. Anh ta sẽ không qua được được đâu". Anh đã muốn chết đi cho rảnh. Sự đau đớn thật không thể chịu nổi. Và rồi Susan đang cúi xuống bên anh: "Mở mắt ra nào, chàng thuỷ thủ anh đâu có muốn chết". Anh đã bắt hai mắt mình phải mở ra và qua sự lờ mờ trong đau đớn, nhìn thấy người phụ nữ đẹp nhất mà anh từng thấy trên đời. Cô có khuôn mặt trái xoan mềm mại, mái tóc đen dầy, đôi mắt nâu long lanh và một nụ cười ấm lòng. Anh đã cố mở miệng nói, nhưng điều đó quá sức.
Tướng Hilliard đang nói điều gì đó.
Robert Bellamy kéo đầu óc mình trở về với hiện tại.
- Ngài nóì gì, thưa tướng quân?
- Chúng ta có một rắc rối, ông sĩ quan. Chúng tôi cần sự giúp đỡ của ông.
- Chuyện gì vậy, thưa ngài?
Ông tướng đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại.
- Điều tôi sắp nói với ông là một vấn đề rất nhạy cảm. Nó còn trên mức tối mật.
- Rõ, thưa ngài.
Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thuỵ Sĩ, một quả bóng thám không thời tiết của NATO đâm vào núi. Có một vài dụng cụ thí nghiệm quân sự tối mật ở trên quả cầu đó.
Robert thấy mình bỗng phân vân, không hiểu tất cả những chuyện nầy sẽ dẫn tới đâu.
- Chính phủ Thuỵ Sĩ đã chuyển tất cả những dụng cụ nầy khỏi quả cầu đó, nhưng đáng tiếc là hình như có một số người đã chứng kiến vụ tai nạn. Điều có tính quan trọng sống còn là không ai trong số họ được nói với bất kỳ ai khác về những gì họ đã trông thấy. Bởi nó có thể cung cấp những thông tin quý giá cho một số nước nhất định. Ông nghe tôi nói đấy chứ?
- Thưa ngài, tôi nghĩ là như vậy. Ông muốn tôi nói chuyện với các nhân chứng và cảnh cáo họ không bàn tán về những gì họ đã trông thấy.
- Không hoàn toàn như vậy, ông sĩ quan.
- Vậy thì tôi không hiểu?
- Tôi muốn ông đơn thuần tìm ra những nhân chứng nầy. Những người khác sẽ nói với họ về sự im lặng cần thiết kia.
- Tôi hiểu. Tất cả những nhân chứng nầy đều ở Thuỵ Sĩ ư?
Tướng Hilliard dừng lại trước mặt Robert.
- Đó chính là khó khăn của chúng ta, ông sĩ quan ạ ông biết đấy, chúng ta không hề biết họ là ai. Hay họ ở đâu.
Robert nghĩ là anh đã bỏ qua điều gì đó.
- Xin ngài nói lại?
- Chúng ta chỉ có một thông tin duy nhất là các nhân chứng đi trên một chiếc xe buýt du lịch theo tuyến. Họ ngẫu nhiên đi qua hiện trường khi quả bóng thám không bị nạn gần một làng nhỏ tên là… ông ta quay sang Harrison Keller.
- Uctendort.
Viên tướng quay lại phía Robert.
- Khách xuống xe trong ít phút để xem vụ tai nạn và rồi lại tiếp tục đi. Khi chuyến du lịch kết thúc, những người khách nầy lại tản đi tứ phương.
Robert chậm rãi nói:
- Thưa tướng quân Hilliard, có phải ngài đang nói rằng không hề có hồ sơ gì về việc những người nầy là ai hoặc họ đã đi đâu ư?
- Đúng thế.
- Và ngài muốn tôi sang đó tìm họ?
- Đúng thế. Ông đã được người ta tin cậy tiến cử. Tôi nghe nói ông có thể nói lưu loát dăm bảy thứ ngôn ngữ, và ông có một tiểu sứ hoạt động tuyệt vời: Ngài giám đốc đã thu xếp để ông được tạm thời chuyển sang NSA.
- Khủng khiếp thật! Tôi cho là tôi sẽ làm việc với chính phủ Thuỵ Sĩ về chuyện nầy?
- Không, ông sẽ làm việc một mình thôi.
- Một mình? Thế nhưng…
- Chúng ta không được kéo bất kỳ ai khác vào sứ mệnh nầy. Tôi không sao nói hết được tầm quan trọng của những gì có trong quả cầu đó, ông sĩ quan ạ. Vấn đề là thời gian. Tôi muốn ông báo cáo với tôi về kết quả mỗi ngày của công việc ông làm.
Viên tướng viết một con số lên tấm các và đưa nó cho Robert.
- Có thể gọi tôi ở số máy nầy, ngày cũng như đêm. Một chiếc máy bay đang đợi để đưa ông tới Zurich. Ông sẽ được đưa về chỗ ở để thu xếp hành lý cần thiết, và rồi ông sẽ được đưa ra sân bay.
Quá nhiều cho lời "Cảm ơn ông đã ghé qua". Robert muốn hỏi "Sẽ có người cho mấy con cá vàng của tôi ăn trong thời gian tôi đi vắng chứ?" nhưng anh có cảm giác rằng câu trả lời sẽ là "ông không có con cá vàng nào cả"
- Ông sĩ quan, trong công việc của ông bên ONI, tôi cho là ông có những quan hệ tình báo ở nước ngoài?
- Thưa ngài, vâng. Tôi có một vài người bạn có thể có ích.
- Ông không được tiếp xúc với bất kỳ ai trong số họ. Ông không được phép có bất kỳ tiếp xúc nào cả. Không còn nghi ngờ là những nhân chứng mà ông sẽ tìm kiếm là công dân của nhiều nước khác nhau. - Viên tướng quay sang Harrison Keller.
Keller bước đến bên một chiếc tủ hồ sơ ở góc phòng và mở ra. Anh ta lấy một phong bì lớn, chuyển cho Robert.
- Có năm mươi ngàn đôla trong nầy bằng một số đồng tiền châu Âu khác nhau và hai mươi ngàn đôla Mỹ. Ông cũng sẽ thấy dăm bộ giấy tờ giả sẽ được chuyển đến vào lúc cần thiết.
Tướng Hilliard giơ ra một tấm các bọc nhựa màu đen bóng và dầy cộp với một vạch trắng trên đó.
- Còn đây là chiếc thẻ tín dụng.
- Tôi không cho là tôi sẽ cần đến nó, thưa tướng quân. Số tiền mặt sẽ là đủ, và tôi còn một chiếc thẻ tín dụng của ONI rồi.
- Cầm lấy.
- Tốt thôi. - Robert xem xét tấm thẻ. Nó được đảm bảo bởi một nhà băng mà anh chưa bao giờ được nghe thấy tên. Phía dưới tấm thẻ có một số điện thoại.
- Không có cái tên nào trên thẻ cả. - Robert nói.
- Nó tương đương với một tấm ngân phiếu trắng đấy. Nó không đòi hỏi sự nhận diện nào. Hãy yêu cầu họ gọi điện đến số máy trên thẻ khi ông mua một thứ gì đó. Điều quan trọng là ông phải luôn luôn giữ nó trong người.
- Vâng.
- Và nầy, ông sĩ quan?
- Dạ, thưa ngài.
- Ông phải tìm được những nhân chứng đó. Tất cả bọn họ. Tôi sẽ thông báo với giám đốc rằng ông đã bắt đầu nhận nhiệm vụ nầy.
Cuộc gặp gở kết thúc.
Harrison Keller tiễn Robert ra phòng ngoài. Một lính thuỷ đánh bộ mặc quân phục đã ngồi ở đó. Anh ta đứng dậy khi hai người bước vào phòng.
- Đây là đại uý Dougherty. Anh ấy sẽ đưa ông ra sân bay. Chúc may mắn.
- Cảm ơn.
Hai người bắt tay nhau. Keller quay đi và bước trở vào văn phòng của tướng Hilliarđ.
- Ông đã sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại uý Dougherty hỏi.
- Rồi.
Mà sẵn sàng gì mới được cơ chứ? Trong qụá khứ, anh đã giải quyết nhiều nhiệm vụ tình báo phức tạp, nhưng chưa bao giờ có chuyện điên rồ như thế nầy. Người ta muốn anh tìm kiếm một số lượng không rõ những nhân chứng không được biết là ai và không biết là người nước nào. Xác suất được thua trong chuyện nầy ra sao đây? Robert phân vân. Mình cảm thấy giống như Nữ hoàng Trắng trong Xuyên qua lớp kính vậy. Sao có lúc tôi tin là có tới sáu điều không thể được trước bữa ăn sáng. Ồ, đây là cả sáu điều đó cộng lại.
- Tôi được lệnh đưa ông thẳng về chỗ ở và rồi ra căn cứ không quân Andrews, - đại uý Dougherty nói. - Có một chiếc máy bay đang đợi.
Robert lắc đầu.
- Tôi phải ghé vào cơ quan tôi trước đã.
Dougherty lưỡng lự.
- Cũng được. Tôi sẽ cùng đi với ông đến đó và đợi ông.
Dường như không thấy anh thì họ không tin anh vậy. Bởi vì anh đã biết có một quả bóng thám không bị nạn ư? Điều đó thật vô lý. Anh trao lại tấm phù hiệu của mình tại bàn đón tiếp và bước ra ngoài trời giá lạnh, rạng sáng. Chiếc xe của anh không còn đó.
Thay vào chỗ đó là một chiếc xe sang trọng dài thượt.
- Chiếc xe của ông sẽ được bảo quản, thưa ông chỉ huy, - đại uý Dougherty nói với anh. - Chúng ta sẽ đi chiếc xe nầy.
Có một sự quan tâm chu đáo về tất cả đến mức Robert cảm thấy hơi khó chịu.
- Được anh nói.
Và họ lên đường tới Cục Tình báo hải quân. Mặt trời buổi sớm mờ nhạt đã biến mất sau những đám mây mưa. Sẽ là một ngày xấu. Theo nhiều nghĩa chứ không hẳn chỉ là một, Robert nghĩ.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
ÂM MƯU NGÀY TẬN THẾ​
Dịch giả : Nguyễn Bá Long​
Chương 3

Ottawa, Canada, 24 giờ 00
Mật danh của ông ta là Janus. Ông ta đang trình bày trước mười hai người trong một căn phòng được bảo vệ cẩn mật nằm trong một khu vực quân sự.
- Như tất cả các ông đã được thông báo, Chiến dịch Ngày Tận Thế đã được bắt đầu. Có một số các nhân chứng phải được tìm ra một cách nhanh chóng và lặng lẽ nhất ở chừng mức có thể. Chúng ta không thể tính chuyện tìm kiếm họ thông qua các kênh an ninh chính quy do nguy cơ bị tiết lộ.
- Chúng ta đang dùng ai vậy? - Người Nga. Nóng nảy. To lớn.
- Tên anh ta là Robert Bellamy, sĩ quan chỉ huy.
- Anh ta được lựa chọn như thế nào vậy? - Người Đức. Vẻ quý tộc. Tàn nhẫn.
- Viên sĩ quan nầy được chọn sau khi máy tính tìm kiếm một cách kỹ càng trong các hồ sơ của CIA, FIA, và nửa tá cơ quan tình báo khác.
- Xin cho tôi được hỏi về những phẩm chất của anh ta? - Người Nhật Bản. Lịch sự. Quỷ quyệt.
- Sĩ quan chỉ huy Bellamy là sĩ quan nghiệp vụ nói được sáu thứ tiếng một cách thành thạo và có một lý lịch mẫu mực. Anh ta liên tiếp tỏ ra hết sức năng lực. Anh ta không còn ai thân thích đang sống.
- Anh ta biết gì về tính cấp bách của vụ nầy không? - Người Anh. Trưởng giả. Nguy hiểm.
- Anh ta biết. Chúng ta hoàn toàn có thể mong đợi rằng anh ta sẽ rất nhanh chóng tìm thấy tất cả các nhân chứng.
- Anh ta có biết mục đích của sứ mệnh mình đang làm không? - Người Pháp. Ưa tranh luận. Bướng bỉnh.
- Không.
- Và khi anh ta đã tìm thấy các nhân chứng thì sao? - Người Trung Quốc thông minh. Kiên nhẫn.
- Anh ta sẽ được khen thưởng xứng đáng.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 4

Trụ sở cục Tình báo hải quân chiếm toàn bộ tầng năm của khu Ngũ Giác Đàirộng lớn, một tầng nhà lọt thỏm giữa cái khu trụ sở làm việc lớn nhất thế giới, với tổng cộng mười bảy dặm hành lang và hai mươi chín nghìn nhân viên quân sự và dân sự.
Nội thất của trụ sở Cục phản ánh truyền thống đi biển của nó. Bàn làm việc và tủ hồ sơ hoặc mang màu xanh ôliu, của thời chiến tranh thế giới thứ hai, hoặc màu xám của tàu chiến, trong thời kỳ chiến tranh Việt nam. Tường và trần nhà được sơn màu da bò hoặc màu kem. Hồi đầu, Robert không thể chịu nổi cách trang trí nội thất kiểu Spartan nầy, nhưng từ lâu nay, anh đã trở nên quen thuộc với nó.
Lúc nầy, khi anh bước vào toà nhà và tiến lại bàn thường trực, người lính gác quen thuộc ngồi sau bàn nói:
- Xin chào ông sĩ quan chỉ huy. Tôi có thể xem giấy ra vào của ông được không ạ?
Robert đã làm việc ở đây 7 năm, nhưng thủ tục nầy chưa bao giờ thay đổi. Anh xuất trình giấy tờ theo đúng bổn phận của mình.
- Cám ơn ông chỉ huy.
Trên đường tới phòng làm việc của mình, Robert nghĩ tới đại uý Dougherty đang đợi anh trong khu đậu xe phía cổng vào lối bờ sông. Anh ta đang chờ để đưa anh ra chuyến bay tới Thuỵ Sĩ, bắt đầu một cuộc đi săn vô vọng.
Khi Robert tới phòng làm việc của mình, cô thư ký Barbara của anh đã ở đó.
- Xin chào ông chỉ huy. Ông phó giám đốc muốn gặp ông tại phòng làm việc của ông ấy.
- Ông ấy có thể đợi. Hãy liên lạc với Đô đốc Whittaker cho tôi.
- Thưa ông, vâng.
Một phút sau, Robert đã đang nói chuyện với Đô đốc.
- Tôi cho là anh đã kết thúc cuộc gặp của anh rồi phải không, Robert?
- Cách đây chỉ vài phút.
- Chuyện thế nào?
- Cũng thú vị. Ngài có rảnh để đến ăn sáng với tôi không, thưa Đô đốc? - Anh cố giữ giọng nói bình thường. Không hề có chút lưỡng lự nào.
- Được. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó chứ?
- Vâng. Tôi sẽ để sẵn cho ngài tấm giấy ra vào dùng cho khách.
Rất tốt. Tôi sẽ đến anh trong vòng một giờ.
Robert gác máy và nghĩ. Việc mình phải để giấy ra vào dùng cho khách cho ngài Đô đốc: thật là điều mỉa mai. Chỉ mới cách đây vài năm, ông còn là một ông gíà đáng kính đây, phụ trách Tình báo hải quân.
Ông nghĩ gì về chuyện đó nhỉ?
Robert bấm nút gọi thư ký của anh trên máy liên lạc nội bộ:
- Dạ, thưa ông chỉ huy?
- Tôi đang chờ Đô đốc Whittaker. Thu xếp một giấy ra vào cho ông.
- Tôi sẽ lo việc đó ngay ạ.
Bây giờ đã đến lúc phải trình diện lão phó giám đốc. Lão Dustin Thornton khốn kiếp.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 5

Lustin Thornton "bẩn thỉu", phó giám đốc Cục Tình báo hải quân, đã nổi tiếng là một trong những vận động viên điền kinh xuất sắc nhất trong số những người tốt nghiệp trường Annapolis. Thornton có được cái vị trí cao hiện nay là nhờ một trận bóng bầu dục.
Nói chính xác là một trận đấu giữa Lục quân và Hải quân. Thornton, một sinh viên sắp tốt nghiệp của Annapolis, với dáng người cao to lừng lững, giữ chân hậu vệ trong trận đấu quan trọng nhất trong năm của Hải quân. Vào đầu hiệp thứ tư, Lục quân đang dẫn 13-0, hai lần được phạt sau gôn và sắp đến lúc đổi sân, số mệnh đã can thiệp và thay đổi cuộc đời Thornton. Anh ta chặn được một đường chuyền của Lục quân, xoay người và lướt qua đội hình của đối phương để dành một cú phạt tiếp gôn. Hải quân để lỡ cơ hội ghi điểm nhưng nhanh chóng có được một bàn thắng. Sau cú phát bóng sau đó, Lục quân để lỡ cơ hội đầu tiên và phạm lỗi bên sân Hải quân. Tỉ số trận đấu lúc đó là Lục quân 13, Hải quân 9, và thời gian đang trôi mau.
Khi trận đấu bắt đầu trở lại, một quả bóng được chuyền cho Thornton và anh ta bị chèn ngã bởi một cầu thủ Lục quân. Phải mất một lúc lâu anh ta mới đứng dậy được. Viên bác sĩ chạy vào sân. Thornton giận dữ xô ông ta ra.
Chỉ còn ít giây nữa, các cầu thủ la hét gọi một đường chuyền biên. Thornton được được bóng ở ngay trên vạch năm mét năm mươi của anh ta và dẫn bóng lên với tốc độ và sức mạnh dường như không gì cản nổi. Anh ta lao qua đội hình đối phương như một chiếc xe tăng, quật ngã tất cả những kẻ thiếu may mắn ngáng đường. Chỉ còn hai giây nữa, Thornton vượt qua đường biên ngang với bàn thắng quyết định, và lần đầu tiên trong bốn năm trời, Hải quân đã có trận thắng Lục quân. Nhưng bản thân điều đó không có mấy tác động đến cuộc đời của Thornton. Điều đã làm cho trận đấu nầy trở nên có ý nghĩa là việc Willard Stone và con gái là Eleanor ngồi trong khu dành riêng cho những nhân vật quan trọng. Khi đám đông khán giả đứng cả dậy, reo hò chúc mừng người anh hùng của Hải quân thì Eleanor quay sang cha và thì thào nói: "Con muốn gặp anh ta".
Eleanor Stone là một phụ nữ đầy ham muốn. Cô ả có khuôn mặt thô, một thân hình nở nang và những đòi hỏi không thể nào thoả mãn được. Ngắm nhìn Dustin Thornton lừng lững trên sân, cô ả đã cố hình dung xem anh ta sẽ như thế nào ở trên giường. Giá mà cái kia của anh ta cũng to như thân thể… Cô ả đã không phải thất vọng.
Sáu tháng sau, Eleanor và Dustin Thornton làm đám cưới. Đó là điểm khới đầu. Dustin Thornton đi làm cho bố vợ và được đưa vào một thế giới huyền bí mà anh ta nằm mơ cũng không thấy.
Willard Stone, bố vợ của Thornton, là một người đàn ông kỳ lạ. Một tỉ phú với những mối liên hệ chính trị đầy thế lực và một quá khứ được che phủ trong một bức màn bí mật. Ông ta là một nhân vật trong bóng tối có thể giật dây mọi chuyện tại các thủ đô trên khắp thế giới. Khi đó, ông ta đã ở tuổi 60, một người đàn ông thận trọng mà mỗi cử chỉ đều chính xác và hợp lý, một con người sắc sảo với cặp mắt sụp xuống không bao giờ để lộ điều gì. Willard Stone tin rằng không nên phung phí những lời nói và tình cảm, và để đạt được mục đích thì ông ta sẵn sàng tàn nhẫn.
Những lời đồn đại về Willard Stone thật huyền bí. Ông ta được cho là đã hạ sát một đối thủ cạnh tranh ở Malaysia và có một cuộc tình nồng cháy với người vợ yêu của một vị tiểu vương. Người ta nói rằng chính ông ta đã trợ giúp cho một cuộc cách mạng thành công ở Nigiêria. Chính phủ đã có dăm bảy phán quyết chống lại ông ta, nhưng chúng luôn luôn bị bỏ rơi nửa chừng một cách bí hiểm. Rồi chuyện về các vụ hối lộ các thượng nghị sĩ bị mua chuộc, các bí mật kinh doanh hị đánh cắp, và những nhân chứng bị mất tích…
Stone là một cố vấn cho các tổng thống và các quốc vương. Ông ta là một thế lực trần trụi và thô thiển.
Một trong số rất nhiều những tài sản của ông ta là một dinh thự rộng lớn, biệt lập trên vùng núi bang Colorado, nơi hàng năm, các nhà khoa học, các ông chủ công nghiệp, và các nhà lãnh đạo thế giới tụ họp với những cuộc bàn bạc bí mật. Lính gác có vũ trang ngăn chặn tất cả những vị khách không được mời.
Willard Stone không chỉ tán thành cuộc hôn nhân của con gái, mà còn khuyến khích nó. Thằng con rể mới của ông trông sáng sủa, đầy tham vọng và quan trọng nhất là có vẻ dễ bảo.
Mười hai năm sau cuộc hôn nhân đó, Stone thu xếp để Dustin được bo nhiệm làm đại sứ tại Nam Triều Tiên. Mấy năm sau, Tổng thống bổ nhiệm ông ta làm đại sứ tại Liên Hiệp Quốc. Khi Đô đốc Ralph Whittaker đột ngột bị đẩy khỏi chức vụ quyền giám đốc Cục Tình báo hải quân, Thornton đã ngồi vào vị trí nầy.
Ngay hôm đó, Willard Stone hứa:
- Tao có những kế hoạch lớn cho mầy, Dustin. Những kế hoạch vĩ đại. - Và ông ta phác ra những nét lớn.
Hai năm trước, Robert có cuộc gặp đầu tiên vớỉ vị quyền giám đốc mới của ONI.
- Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Không một vẻ thân tình trong giọng nói của Dustin Thornton. - Qua hồ sơ về ông, tôi biết ông là một tay vô tổ chức, đại loại là như vậy.
Lão muốn nói chuyện quái quỷ gì vậy nhỉ? Robert băn khoăn. Anh quyết định phải giữ mồm giữ miệng.
Thornton ngước mắt lên.
- Tôi không biết Đô đốc Whittaker điều hành cái Cục nầy như thế nào thời ông ta phục trách, nhưng kể từ bây giờ trở đi, chúng ta sẽ làm việc theo đúng nguyên tắc. Tôi muốn mọi mệnh lệnh của tôi phải được thực hiện đúng tới từng chữ. Tôi nói đã rõ chưa hả?
Giêxu, Robert, nghĩ chúng ta gặp chuyện gì ở đây thế nhỉ?
- Tôi nói đã rõ chưa hả, ông sĩ quan?
- Rõ.
Ông muốn mệnh lệnh của ông phải được thực hiện đúng tới từng chữ. Anh phân vân không hiểu người ta có muốn anh đứng nghiêm chào hay không. Tất cả là vậy thôi.
Nhưng đã đâu phải là tất cả.
Một tháng sau, Robert được phái đi Đông Đức để đón một nhà khoa học muốn đào tẩu. Đó là một nhiệm vụ đầy nguy hiểm bởi lẽ Stasi cơ quan cảnh sát mật Đông Đức, đã biết về vụ đào tẩu được dự kiến nầy và đang theo dõi nhà khoa học một cách chặt chẽ.
Bất chấp điều đó, Robert đã mang được nhà khoa học qua khỏi biên giới, tơi một địa chỉ an toàn. Khi anh đang thu xếp để đưa ông ta về Washington thì nhận được một cú điện của Dustin Thornton nói rằng tình hình đã thay đổi và anh phải chấm dứt nhiệm vụ ngay.
- Chúng ta không thể cứ quẳng ông ta ở đây được, - Robert đã phản đối. - Họ sẽ giết ông ta mất.
- Đó là việc của lão ta, - Thornton đáp. - Nhiệm vụ của ông là trở về ngay.
Kệ xác ông, Robert nghĩ, tôi sẽ không bỏ rơi ông ấy. Anh đã gọi cho một người bạn ở MI6, Cơ quan Tình báo Anh, và phân trần với anh ta về tình thế của mình.
- Nếu như quay về Đông Đức, - Robert nói, - họ sẽ cắt cổ ông ấy. Anh sẽ nhận ông ta chứ?
- Ồ anh bạn cũ, tôi sẽ xem có thể làm gì được.
- Mang ông ta lại.
Và nhà khoa học kia đã được dành cho một nơi ẩn náu ở nước Anh. Dustin Thornton đã không bao giờ tha thứ cho Robert về việc không chấp hành chỉ thị của hắn. Có sự thù địch giữa hai người kể từ đó.
Thornton đã mang chuyện nầy bàn với bố vợ.
- Những khẩu đại bác không kiểm soát được như Bellamy là rất nguy hiểm, - Willard Stone cảnh cáo. - Họ là một mối nguy hiểm về mặt an ninh. Những người như thế hãy nên loại bỏ đi. Hãy nhớ như vậy và Thornton đã ghi nhớ.
Lúc nầy, bước dọc theo hành lang đến phòng làm việc của Dustin Thornton, Robert không thể không nghĩ tới những khác biệt giữa hắn và Whittaker. Trong cái nghề như nghề của anh, sự tin cậy là yếu tố đầu tiên. Anh không tin Dustin Thornton.
***
Thornton đang ngồi ở bàn làm việc khi Robert bước vào.
- Ông muốn gặp tôi phải không?
- Phải. Ngồi xuống, ông sĩ quan. - Mối quan hệ giữa họ chưa bao giờ đạt đến giai đoạn có thể gọi tên nhau.
- Tôi được báo là ông tạm thời chuyển sang Cục An ninh quốc gia. Khi ông trở lại, tôi có một…
- Tôi sẽ không trở lại. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi.
- Cái gì?
- Tôi sẽ thôi việc.
Sau nầy nghĩ lại, Robert không biết chính xác anh đã chờ đợi một phản ứng như thế nào nữa. Có vài khả năng, Dustin Thornton có thể tỏ ra ngạc nhiên, hoặc có thể đã tranh luận, hoặc tức giận hay tỏ ra nhẹ nhõm… Thay vì thế, ông ta chỉ nhìn Robert và gật đầu.
- Ra vậy đấy hả?
Khi Robert trở lại phong mình, anh nói với cô thư kỷ.
- Tôi chuẩn bị đi xa một thời gian. Tôi sẽ lên đường trong vòng một giờ nữa.
- Có chỗ nào để có thể kiếm ông được không ạ?
Robert nhớ đến mệnh lệnh của tướng Hilliard.
- Không.
- Còn mấy cuộc gặp mà ông đã…
- Huỷ đi. - Anh nhìn đồng hồ. Đã đến lúc gặp Đô đốc Whittaker.
***
Họ ăn sáng trong khu vườn trung tâm của Ngũ Giác Đàitại tiệm cà phê Ground Zero (Mặt bằng Số Không). Nó được gọi như vậy là bởi lẽ đã có người cho rằng Ngũ Giác Đài sẽ là nơi diễn ra đòn tấn công hạt nhân đầu tiên chống lại nước Mỹ. Robert đã thu xếp để họ ngồi được ở chiếc bàn trong góc, nơi có thể có một chút riêng tư. Đô đốc Whittaker đến rất đúng giờ và trong khi nhìn ông đi đến bên bàn anh thấy dường như ông có vẻ già hơn và nhỏ bé hơn đi, như thế là tình trạng chờ nghỉ hưu đã làm cho ông già quắc người lại vậy. Ông vẫn là một người đàn ông có vẻ ngoài dễ gây ấn tượng, dáng dấp khoẻ mạnh, cái mũi La Mã, hai gò má cao và tóc lốm đốm bạc.
Robert đã từng phục vụ dưới quyền đô đốc trong chiến tranh Việt nam và sau nầy ở Cục Tình báo hải quân, và anh rất tôn trọng ông. Còn hơn cả sự tôn trọng nữa. Robert thừa nhận với chính mình. Đô đốc Whittaker là người thay cho cha anh.
Vị đô đốc ngồi xuống.
- Chào Robert. Ồ, có phải họ chuyển anh qua bên NSA không?
Robert gật đầu.
- Vâng, tạm thời.
Cô phục vụ đến và hai người xem thực đơn.
- Tôi đã quên mất là đồ ăn ở đây tồi tệ thế nào rồi, - Đô đốc Whittaker vừa nói vừa mỉm cười. Ông nhìn quanh phòng, vẻ mặt đầy nỗi luyến tiếc không được nói ra thành lời.
Ông ấy mong muốn được trở lại chốn nầy. Robert nghĩ, lạy Chúa.
Họ gọi món ăn. Khi cô phục vụ đã đi ra ngoài tầm nghe, Robert nói:
- Thưa Đô đốc, tướng Hillard đang phái tôi đi một chuyến đi dài ba nghìn dặm rất khẩn cấp để tìm cho được một số nhân chứng đã nhìn thấy một vụ tai nạn khinh khí cầu. Tôi thấy rất lạ. Và có điều gì đó thậm chí còn lạ hơn nữa. "Vấn đề là thời gian", đó là nguyên văn lời tướng Hilliard, ấy thế mà tôi đã được lệnh không được dùng tới bất kỳ cơ sở tình báo nào của tôi ở nước ngoài vào vụ nầy.
Đô đốc Whittaker có vẻ lúng túng.
- Tôi cho rằng ông ta có những lý do của mình.
- Tôi không thể nào hình dung ra những lý do đó là cái gì nữa. - Robert nói.
Đô đốc Whittaker chăm chú nhìn Robert. Sĩ quan chỉ huy Bellamy đã phục vụ dưới quyền ông ở Việt nam và là phi công giỏi nhất phi đoàn. Con trai của đô đốc, Edward, là người phụ trách ném bom của Robert, và trong cái ngày khủng khiếp mà máy bay của họ bị bắn hạ, Edward đã chết. Robert may mắn lắm mới còn sống. Đô đốc đã tới quân y viện thăm anh.
"Anh ta chắc không qua khỏi được", các bác sĩ đã nói với ông như vậy. Robert nằm đó trong nỗi đau đớn cùng cực cực, đã thì thầm, "Cháu xin lỗi về Edward… Cháu thật có lỗi".
Đô đốc Whittaker đã nắm chặt tay Robert. "Bác biết là cháu đã làm tất cả những gì có thể làm được. Giờ đây, cháu phải bình phục lại, rồi cháu sẽ khoẻ".
Ông rất mong Robert sống được. Trong tâm trí Đô đốc, Robert là con trai ông, đứa con trai sẽ thay cho chỗ của Edward. Và Robert đã qua khỏi.
- Robert nầy.
- Dạ, thưa Đô đốc?
- Tôi hy vọng là anh sẽ thành công trong chuyến đi Thuỵ Sĩ nầy.
- Tôi cũng vậy. Đây là sứ mạng cuối cùng của tôi.
- Anh vẫn quyết tâm thôi việc à?
Vị Đô đốc là người duy nhất mà Robert có thể tin cậy.
- Tôi đã chán ngấy rồi.
- Với Thornton ấy à?
- Không chỉ hắn ta. Tôi nữa. Tôi đã chán chuyện can thiệp vào cuộc đời của những người khác. Tôi chán những lời dối trá và sự lừa lọc cùng với những lời hứa suông không bao giờ được có ý thực hiện cả. Tôi chán chuyện lôi kéo người khác và để bị người khác lôi kéo. Tôi chán những cuốc chơi, sự nguy hiểm và những sụ, phản bội. Nó đã làm mất đỉ của tôi mọi thứ.
- Anh có ý định sẽ làm gì không?
- Tôi sẽ kiếm một việc gì đó có ích cho cuộc đời tôi một việc tích cực gì đó.
- Nếu họ không để cho anh đi thì sao?
- Họ không có sự lựa chọn nào khác, phải vậy không? - Robert nói.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 6

Chiếc xe hơi sang trọng đang đợi ở khu đậu xe cạnh cổng vào lối bờ sông.
- Ông sẵn sàng chưa, thưa ông sĩ quan chỉ huy? - Đại uý Dougherty hỏi.
Sẵn sàng như bao giờ tôi cũng vậy, Robert nghĩ.
***
Đại uý Dougherty đưa Robert trở về nhà để anh có thể thu xếp hành lý. Robert không hề biết anh sẽ phảì đi bao lâu. Cái nhiệm vụ không thể thực hiện được nầy sẽ mất bào nhiêu thời gian nhỉ? Anh sắp xếp số quần áo đủ dùng trong một tuần và, ở phút cuối cùng, bỏ thêm vào tấm ảnh của Susan lồng trong khung kính. Anh nhìn đăm vào gương mặt yêu quý hồi lâu và nghĩ liệu có phải cô đang vui vẻ ở Brasil không. Anh nghĩ, mình hy vọng là không. Mình hy vọng lá cô ấy đang cô nhưng ngày tệ hại nhất. Và ngay lập tức anh cảm thấy xấu hổ với chính mình.
Khi đến căn cứ không quân Andrews, máy bay đợi anh. Đó là chiếc C20A, một máy bay phản lực của không quân.
Đại uý Dougherty chìa tay ra.
- Chúc ông may mắn.
- Cám ơn. Mình sẽ cần tới nó. Robert leo lên máy bay. Tổ lái đã có mặt đông đủ, kết thúc việc kiểm tra trước chuyến bay. Có một phi công, phi công phụ, hoa tiêu dẫn đường bay, và người phục vụ, tất cả đều mặc quân phục không quân. Robert rất quen thuộc với chiếc máy bay nầy. Nó chứa đầy những thiết bị điện tử. Phía bên ngoài, gần đuôi, có một ăng-ten tần số cao trông giống như một chiếc cần câu lớn. Trong khoang máy bay, có mười hai chiếc điện thoại màu đỏ treo trên vách và một chiếc điện thoại thường, màu trắng. Các liên lạc bằng ra-đa đều được mã hoá và ra-đa của máy bay hoạt động trên một tần số quăn sự. Phần lớn màu trong khoang máy bay là màu xanh da trời của không quân và trong khoang ngồi là những chiếc ghế dựa rất tiện dụng.
Robert thấy rằng anh là người khách duy nhất.
Người lái chính chào anh.
- Xin được đón tiếp ông, thưa ông sĩ quan chỉ huy. Nếu như ông cài dây an toàn vào là chúng ta được phép cất cánh.
Robert làm theo và ngả người trên ghế trong khi chiếc máy bay chạy dọc theo đường băng. Một phút sau, anh thấy cái cảm giác quen thuộc của tình trạng tăng trọng lượng khi máy bay lao lên không trung.
Anh đã thôi lái từ vụ bị rơi kia, khi anh được thông báo rằng anh sẽ không bao giờ có thể lái được nữa. Còn bay nữa, Robert nghĩ, họ nói mình sẽ không sống nổi ấy chứ. Một điều kỳ diệu - Không, đó là nhờ Susan… Việt nam. Anh đã được đưa đến đó với cấp bậc thượng uý, biên chế trên hàng không mẫu hạm Ranger với cương vị một sĩ quan tác chiến, chịu trách nhiệm huấn luyện phi công tiêm kích và vạch kế hoạch cho chiến lược tiến công. Anh chỉ huy một phi đội cường kích Kẻ xâm nhập A- 6A và có rất ít thời gian nghỉ ngơi sau những căng thẳng của cuộc chiến. Một trong số ít những kỳ nghỉ phép, anh đã đến thăm Bangkok, chừng một tuần lễ, và trong thời gian, đó thậm chí anh không thèm ngủ nghê gì. Thành phố ấy giống như một vương quốc Disney được tạo ra cho những khoái lạc của giống đực. Trong giờ đầu tiên ở thành phố nầy, anh gặp một cô gái Thái Lan xinh đẹp, và cô ta đã ở suốt bên anh cả quãng thời gian và dạy anh một vài câu tiếng Thái. Anh thấy thứ ngôn ngữ đó thật mềm mại và ngọt ngào.
Arun sawasdi. Chào buổi sáng.
Khưn na chak nai? Bạn từ đâu đến?
Khun kamrant chain pai? Bạn đi đâu bây giờ thế?
Cô cũng dạy anh một số câu khác nữa, nhưng không nói với anh nghĩa của chúng là thế nào, và khi anh nói lại thì cô khúc khích cười.
Khi Robert trở về tàu Ranger, Bangkok dường như chỉ còn là một giấc mơ xa xôi. Chiến tranh mới là hiện thực và là một nỗi khủng khiếp. Ai đó cho anh xem một số nhưng tờ truyền đơn mà lính thuỷ đánh bộ Mỹ rải ở Bắc Việt nam. Truyền đơn viết:
"Các công dân thân mến,
Lính thuỷ quân lục chiến Mỹ đang chiến đấu bên cạnh các lực lượng Nam Việt nam tại Đức Phổ (1) nhằm tạo cho nhân dân Việt nam một cơ hội sống cuộc sống tự do, hạnh phúc, không phải chịu đói khát và đau khổ. Nhưng nhiều người Việt nam đã phải trả giá bằng tính mạng của họ, và nhà cửa của họ bị huỷ hoại bởi lẽ họ đã giúp đỡ cho Việt Cộng.
Những làng xóm ở Hải Môn, Hải Tân, Sa Đình, Tạ Bình và nhiều nơi khác đã bị huỷ diệt vì lý do đó. Chúng tôi sẽ không ngần ngại trước mọi làng xóm nào tiếp tay cho Việt Cộng, những kẻ đang bất lực trước việc ngăn chặn sức mạnh phối hợp của Chính phủ Việt nam (2) và đồng minh. Sự lựa chọn thuộc về các bạn. Nếu các bạn từ chối để Việt Cộng dùng làng xóm thôn ấp của các bạn như chiến trường của họ, nhà cửa và sinh mạng của các bạn sẽ được an toàn".

Chúng ta đang cứu vớt những người dân khốn khổ cứ cho là thế, Robert đã nung nấu nghĩ ngợi.
Và tất cả những gì chúng ta đang huỷ diệt là đất nước của họ.
***
Hàng không mẫu hạm Ranger được trang bị tất cả những kỹ thuật hoàn hảo nhất có thể nhồi nhét được cho nó. Chiếc tàu là căn cứ của 16 máy bay, 40 sĩ quan và 350 binh sĩ. Lịch bay được đưa ra ba hoặc bốn giờ trước chuyến xuất kích đầu tiên trong ngày.
Trong phòng kế hoạch chiến đấu của trung tâm tình báo con tàu, các thông tin mới nhất và các bức ảnh do thám được trao cho những người điều khiển vũ khí để rồi đến lượt họ lập lịch trình bay của chính họ.
Giêsu, sáng nay họ trao cho chúng ta một thắng cảnh, Edward Whittaker, người phụ trách vũ khí của Robert, kêu lên.
Edward Whittaker trông giống cha như đúc nhưng có tính cách hoàn toàn khác. Trong khi ngài đô đốc là một nhân vật khủng khiếp, nghiêm túc và khổ hạnh thì con trai ông là một thanh niên thực dụng, nồng nhiệt và dễ mến. Anh ta đã có được cương vị của mình "giống như bao nhiêu người khác". Đồng đội không còn để ý đến chuyện Edward là con trai người chỉ huy của họ song rất rõ rằng, đó là người phụ trách vũ khí xuất sắc nhất trong phi đoàn. Anh ta và Robert đã trở thành cặp bạn thân.
- Chúng ta sẽ bay tới đâu vậy? - Robert hỏi.
Vì những tội lỗi của chúng ta, ta đã chọn phải Khu Sáu. Đó là phi vụ nguy hiểm nhất trong tất cả. Điều đó có nghĩa là phải bay theo hướng bắc tới Hà Nội, Hải Phòng và khu vực châu thổ sông Hồng, nơi có lưới lửa phòng không dày đặc nhất. Thời gian mười hai năm xâm chiếm Việt nam là thời kỳ chiến tranh dài lâu nhất từ trước đến nay đối với nước Mỹ. Robert Bellamy đang mắc phải những vấn đề nghiêm trọng.
Những phi đội F-4 của họ đang bị tiêu hao. Bất chấp sự thật là những máy bay của nó ưu việt hơn hẳn những chiếc MiG(3) của Nga, Hải quân Mỹ đang phải mất một chiếc F-4 để có thể bắn hạ được hai chiếc MiG. Đó là một tỉ lệ không thể chấp nhận được.
Robert được triệu tập đến Phòng chỉ huy của Đô đốc Ralph Whittaker.
- Thưa Đô đốc, ngài cho gọi tôi ạ?
- Anh nổi tiếng là một phi công cừ khôi. Tôi cần sự giúp đỡ của anh.
- Thưa ngài, chuyện gì ạ?
- Chúng ta đang bị tiêu huỷ bởi kẻ thù khôn ngoan. Tôi đã cho làm một báo cáo phân tích kỹ lưỡng. Không có vấn đề gì đối với những máy bay của chúng ta. Vấn đề là việc huấn luyện những người sử dụng chúng. Anh hiểu chứ?
- Thưa ngài, vâng.
- Tôi muốn anh chọn lấy một nhóm và dạy dỗ lại họ về chiến thuật và cách sử dụng vũ khí…
Nhóm mới nầy được gọi là Top Gun, và trước khi họ kết thúc, thì tỉ lệ kia mới thay đổi từ 2-1 xuống 12-1. Cứ hai chiếc F-4 bị mất là 24 chiếc MiG bị bắn hạ. Mất tám tuần huấn luyện căng thẳng để hoàn thành nhiệm vụ nầy và sau cùng thì Bellamy đã trở về với chiếc tàu của mình. Đô đốc Whittaker đã đón tiếp anh.
Một thành quả tuyệt hảo, chàng sĩ quan ạ.
- Cám ơn Đô đốc.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với công việc.
- Tôi sẵn sàng, thưa ngài.
Robert đã bay ba mươi tư phi vụ ném bom từ tàu Ranger không hề có sự cố gì.
Phi vụ thứ ba mươi lăm của anh là tới Khu Sáu.
Họ đã bay qua bầu trời Hà Nội và đang hướng về phía tây bắc, tới vùng trời Phú Thọ, Yên Bái. Lưới lửa phòng không đang mỗi lúc một dầy đặc thêm. Edward Whittaker ngồi phía bên phải Robert chăm chú nhìn vào màn hình ra-đa , lắng nghe những âm thanh trầm trầm đáng lo ngại của ra-đa cảnh giới của đối phương đang quét trên bầu trời.
Bầu trời phía trước mặt họ giống như bầu trời nước Mỹ ngày quốc khánh, điểm những cụm khói trắng của đạn phòng không hạng nhẹ phía dưới thấp, những cụm khói xám sẫm của đạn pháo 55mm, những đám khói đen của đạn pháo 100mm và những đường đạn đỏ rực của súng máy hạng nặng.
- Chúng ta đang tiến đến mục tiêu đấy, Edward nói. Giọng nói của anh ta qua cáp nghe có vẻ xa xôi đến kỳ lạ.
- Rõ rồi.
Chiếc A- 6A Kẻ xâm nhập đang bay với tốc độ 800km một giờ, và với vận tốc đó, thậm chí với cả sự nặng nề của lượng bom mang theo, nó vẫn rất cơ động và đối phương khó có thể truy đuổi.
Robert với tay và bật công tắc sử dụng vũ khí. Một tá bom loại 500 bảng Anh lúc nầy đã sẵn sàng được phóng ra. Anh đang hướng thẳng đến mục tiêu.
Một giọng nói trong radio của anh vang lên.
- Romeo - anh có một con quỷ đằng sau đấy.
Robert ngoái lại nhìn. Một chiếc MiG đang từ phía mặt trời bay lại phía anh. Robert lật nghiêng và bay chéo xuống. Chiếc MiG bám theo. Nó đã bắn một quả tên lửa. Robert liếc mắt nhìn bảng đồng hồ. Quả tên lửa đang lao đến rất nhanh. Cách ba trăm mét… hai trăm mét trăm rươi mét…
- Đồ khốn! - Edward quát lên. - Chúng ta còn chờ gì nữa.
Robert đã đợi đến giây cuối cùng, rồi phóng ra một đám nhiễu kim loại và đổi hướng bay vọt lên cao, để mặc quả tên lửa lao theo đám nhiễu nổ tung một cách vô hại xuống phía mặt đất bên dưới.
- Ơn Chúa, - Edward nói. - Và cảm ơn cả cậu nữa, anh bạn ạ.
Robert tiếp tục bay lên và đột ngột vòng lại phía sau chiếc MiG. Tay phi công kia bắt đầu động tác lẩn tránh thì đã quá muộn. Robert phóng ra một quả Sidewinder và nhìn theo nó chui tọt vào đuôi chiếc MIG rồi nổ tung. Một giây sau, bầu trời bị phủ bởi một trận mưa những mảnh kim loại.
Một giọng nói vang lên trong cáp nghe.
- Khá lắm, Romeo.
Lúc nầy chiếc máy bay đã ở phía bên kia mục tiêu.
- Nào, ta bắt đầu, - Edward nói. Anh ta ấn cái nút đỏ rồi nhìn những trái bom lao xuống mục tiêu.
Phi vụ đã hoàn thành. Robert hướng máy bay bay về phía tàu mẹ.
Đúng lúc đó, họ thấy một tiếng động khác thường.
Chiếc cường kích vốn nhanh nhẹn và ngoan ngoãn là thế bỗng trở nên nặng trịch.
- Chúng ta đã dính đạn rồi. - Edward kêu lên.
Cả hai chiếc đèn tín hiệu báo cháy đều loè đỏ.
Chiếc máy bay lảo đảo và không còn tuân theo sự điều khiển.
Một giọng nói vang lên trong radio:
- Romeo nầy, đây là Tiger. Anh có muốn chúng tôi che chắn cho không?
Robert đưa ra quyết định chớp nhoáng.
- Không, cứ tiếp tục đến mục tiêu của anh đi. Tôi sẽ cố lết về căn cứ.
Chiếc máy bay bay chậm lại và càng trở nên khó điều khiển hơn.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
- Nhanh lên, Edward hồi hộp nói, không thì chúng ta sẽ muộn giờ ăn trưa mất.
Robert nhìn đồng hồ đo độ cao. Chiếc kim đang tụt xuống nhanh chóng. Anh mở máy liên lạc chính.
- Romeo gọi căn cứ. Chúng tôi đã bị đạn.
- Căn cứ gọi Romeo. Tình hình xấu lắm không?
- Tôi không rõ. Tôi nghĩ là tôi có thể bay về nhà được.
- Giữ máy. - Một giây sau, giọng nói kia trở lại. - Tín hiệu của anh là Chalie đang trở về.
Điều đó có nghĩa là họ được phép hạ cánh xuống hàng không mẫu hạm ngay lập tức.
- Rõ.
- Chúc may mắn.
Chiếc máy bay đang sắp bị lật. Robert cố lấy lại thăng bằng, cố lấy thêm độ cao.
- Nào, bạn thân mến, bạn có thể làm được mà. - Khuôn mặt Robert căng thẳng. Họ đang mất độ cao quá nhiều. - Chúng ta còn bao lâu nữa hả?
Edward nhìn bản đồ bay.
- Bảy phút.
- Tôi sẽ cho cậu ăn bữa trưa nóng sốt đấy.
Robert cố hết sức để giữ chiếc máy bay bay thẳng với tất cả tài nghệ của mình, sử dụng van dầu và bánh lái. Độ cao vẫn tiếp tục tụt xuống tới mức báo động. Nhưng sau cùng, ở phía trước mặt, Robert nhìn thấy mặt nước biển lấp loá của vịnh Bắc bộ.
- Chúng ta về đến nhà rồi, anh bạn ạ. - Robert nói - Chỉ vài dặm nữa thôi.
- Khủng khiếp thật. Tớ không ngờ và không biết từ đâu, hai chiếc MIG ầm ầm lao xuống. Những loạt đạn bắt đầu xuyên vào thân Kẻ xâm nhập A-6A.
- Eddie. Nhảy dù đi! - Anh quay sang nhìn. Edward sụp người trên chiếc dây an toàn, nửa bên phải bị xé nát, máu phun đầy khoang lái.
- Không. - Anh thét lên.
Một giây sau, Robert chợt cảm thấy đau điếng ở ngực. Ngay lập tức, bộ đồ bay của anh ướt đẫm máu.
Chiếc máy bay bắt đầu rơi theo một hình xoắn ốc.
- Anh cảm thấy mình đang ngất đi. Với chút sức lực cuối cùng anh tháo dây an toàn và quay sang nhìn Edward lần cuối cùng.
- Tớ xin lỗi, - anh thì thầm, rồi ngất đi và cho tới sau nầy cũng không thể nhớ được anh đã bật dù và rơi xuống mặt nước như thế nào. Một tín hiệu cấp cứu được phát đi và một chiếc trực thăng Vua biển SH-3A từ chiếc tàu U.S.S Yorktown bay vòng tròn, tìm cách cứu anh lên. Ở phía xa, đội bay nhìn thấy những chiếc tàu chiến Trung Quốc cỡ nhỏ đang lao đến, nhưng đã quá muộn.
Khi họ mang được Robert lên trực thăng, một nhân viên y tế thoáng nhìn thân thể dập nát của anh và nói "Lạy Chúa, thậm chí anh ta sẽ không về được tới bệnh viện nữa".
Họ tiêm cho Robert một liều thuốc giảm đau, băng chặt lồng ngực anh lại và chở anh về bệnh viện dã chiến số 12 ở căn cứ Củ Chi.
Bệnh viện 12 phục vụ cho các căn cứ Củ Chi, Tây Ninh và Dầu Tiếng có bốn trăm giường bệnh rải rác trong hơn một chục khu điều trị với những chiếc nhà tôn tháo lắp được, nối liền với nhau bằng những hành lang và tạo thành một khu liên hợp hình chữ U. Bệnh viện nầy có hai bộ phận cấp cứu, một cho những ca phẫu thuật và một cho những ca bỏng, mà cả hai luôn luôn trong tình trạng quá tải. Khi Robert được đưa vào máu anh nhỏ giọt thành vệt trên sàn.
Một bác sĩ phẫu thuật với vẻ khó chịu cắt những lớp băng quanh lồng ngực Robert, xem xét, và uể oải nói:
- Anh ta sẽ không thể qua được. Đưa anh ta lại phòng lạnh đi. - Và viên bác sĩ bước đi.
Robert nửa mê nửa tỉnh, thoáng nghe thấy lời viên bác sĩ. Vậy đấy, anh nghĩ, một kiểu chết thật tẻ ngắt.
- Anh không muốn chết phâi không, chàng thuỷ thủ? Mở mắt ra đi. Nào.
Anh mở mắt và lờ mờ nhìn thấy một bóng áo trắng và một khuôn mặt phụ nữ. Cô ta còn nói thêm gì nữa, nhưng anh không thể nghe được lời cô. Khu điều trị quá ồn ào, đầy những tiếng la thét và rên rỉ của bệnh nhân, tiếng các bác sĩ quát lên những mệnh lệnh, và tiếng chân các y tá cuống cuồng chạy vòng quanh chăm sóc những thân thể đầy thương tích đang nằm đó.
Suất 48 tiếng đồng hồ sau đó, Robert luôn trong tình trạng đau đớn và mê sảng. Chỉ mãi sau nầy anh mới biết rằng cô y tá đó, Susan Ward, đã thuyết phục được một bác sĩ mổ và tiếp máu cho anh.
Để dành lại sự sống cho anh, họ đã đặt bốn đường truyền máu vào cái thân thể nhàu nát của anh và liên tiếp truyền máu đồng thời qua cả bốn đường.
Khi ca mổ kết thúc, viên bác sĩ trưởng kíp mổ thở dài:
- Chúng ta đã phí thời gian. Khả năng anh ta qua được không quá mười phần trăm.
Thế nhưng viên bác sĩ đã không biết Robert Bellamy. Và ông ta càng không biết Susan Ward. Robert thấy dường như bất kỳ lúc nào anh mở mắt ra, Susan cũng đang ngồi bên, cầm tay anh, vuốt ve trán anh, chăm sóc anh và mong anh sống. Anh mê sảng phần lớn thời gian và lúc nào Susan cũng lặng lẽ bên anh trong đêm đơn độc, nghe những lời lảm nhảm của anh.
"Góc bổ nhào sai, anh không thể lao cắm đầu vuông góc xuống mục tiêu hoặc sẽ ném bom xuống sông…
Bảo họ chuyển góc bổ nhào chếch đi vài độ trên mục tiêu. Bảo họ… - Anh lẩm bẩm.
- Em sẽ bảo họ, - Susan dịu dàng nói.
Người Robert ướt đẫm mồ hôi. Cô lau đi cho anh.
"Các anh phải bỏ cả năm cái kẹp an toàn đi nếu không ghế lái sẽ không bật ra được… Kiểm tra lại chúng đi..
Được rồi. Bây giờ thì ngủ đi.
"Các chốt hãm trên các giá treo bị trục trặc… Có Chúa mới biết được là bom rơi xuống những đâu…
Susan phần lớn không thể hiểu nổi bệnh nhân của cô nói gì cả.
Susan Ward là trưởng nhóm y tá phục vụ phòng mổ cấp cứu. Cô sinh ra ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Idaho và đã lớn lên cùng với cậu bé nhà trên, Frank Prescott, con trai ông thị trưởng. Mọi người trong thị trấn đều cho rằng một ngày nào đó họ sẽ lấy nhau.
Susan có một cậu em trai, Michael, mà cô rất yêu quý. Vào dịp sinh nhật lần thứ mười tám, cậu ta đã nhập ngũ rồi được gửi sang Việt nam, và ngày nào Susan cũng viết thư cho cậu. Ba tháng sau ngày cậu đăng lính, gia đình Susan nhận được một bức điện tín và cô biết nó nói gì trước khi họ giở ra.
Khi Frank Prescott nghe tin, anh ta lao sang.
- Tôi rất lấy làm buồn, Susan. Tôi rất thích Michael.
Và rồi anh ta đã mắc lỗi khi cất lời.
- Chúng ta hãy cưới ngay đi thôi.
Susan nhìn anh ta và quả quyết.
- Không. Tôi còn phải làm một việc quan trọng đối với cuộc đời của tôi.
- Hãy vì chúa. Em còn việc gì quan trọng hơn việc làm vợ tôi hả?
Câu trả lời là Việt nam.
Susan nhập học một trường y tá.
Cô đã ở Việt nam được mười một tháng, làm việc không biết mệt mỏi, khi Robert Bellamy được đưa đến và cầm chắc cái chết. Cứu chữa có chọn lọc là một thực tiễn chung tại bệnh viện cấp cứu tiền phương.
Các bác sĩ thường kiểm tra hai hoặc ba bệnh nhân một lượt và đưa ra những phán quyết vắn tắt về việc sẽ cố cứu lấy ai trong số họ. Vì những lý do mà chính cô cũng không thật rõ, Susan chỉ nhìn thân thể bằm dập của Robert Bellamy và hiểu rằng cô không thể để anh chết được. Có phải đó chính là cậu em trai mà cô muốn cứu sống hay không? Hay còn là điều gì nữa. Cô đã kiệt sức và quá mệt mỏi với công việc, nhưng thay cho việc nghỉ ngơi, cô đã dành mọi thời gian rỗi để chăm sóc anh.
Susan đã xem xét lý lịch bệnh nhân của anh. Một phi công và một huấn luyện viên cừ khôi, đã có một huân chương Chữ thập Hải quân. Nơi sinh của anh là Harvey, bang Illinois, một thành phố công nghiệp nhỏ ở phía nam Chicago. Anh đã gia nhập Hải quân sau khi tốt nghiệp cao đẳng và đã huấn luyện ở Pensacola. Anh chưa có vợ.
Mỗi ngày, trong khi Robert Bellamy đang bình phục, mấp mé giữa làn ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết, Susan đều thì thầm bên tai anh.
- Cố lên, chàng thuỷ thủ. Em đang đợi anh đấy.
Một đêm, sáu ngày sau khi anh được mang vào bệnh viện, khi anh đang lảm nhảm trong một cơn mê sảng, đột nhiên Robert ngồi thẳng dậy trên giường, nhìn Susan, và nói một cách rõ ràng:
- Không phải là giấc mơ. Đúng cô thật.
Susan cảm thấy tim cô nẩy lên.
- Vâng, - Cô nói khẽ khàng. - Thật là em mà.
- Tôi nghĩ là tôi đang nằm mê. Tôi nghĩ là tôi đã lên thiên đường và Chúa sai cô đến với tôi đấy.
Cô nhìn vào mắt Robert và nói đầy vẻ nghiêm túc.
- Nếu để anh chết, thì thà là em giết anh.
Anh đưa mắt nhìn quanh phòng điều trị.
- Tôi… ở đâu thế nầy?
- Bệnh viện dã chiến số 12 tại Củ Chi.
- Tôi đã ở đây bao lâu rồi?
- Sáu ngày.
- Eddie, cậu ấy…
- Em thật buồn.
- Tôi phải nói với ngài Đô đốc.
Cô cầm lấy tay anh và dịu dàng nói:
- Ông ấy biết rồi. Ông ấy đã đến đây thăm anh.
Robert ứa nước mắt.
- Tôi căm ghét cuộc chiến tranh khốn nạn nầy. Không thể nào nói lên được.
***
Từ thời điểm đó trở đi, sự hồi phục của Robert đã làm cho các bác sĩ ngạc nhiên.
- Chúng ta sắp chuyển anh ta đi khỏi đáy được rồi, - họ nói với Susan. Và cô cảm thấy choáng váng.
Robert không hề biết một cách chính xác là anh đã yêu Susan từ khi nào. Có thể là lúc cô đang thay băng cho anh và cô thì thầm khi họ nghe tiếng bom rơi gần đó. "Họ đang chơi bài ca của chúng ta đấy".
Hoặc có thể là khi họ bảo Robert rằng anh đã đủ sức để được đưa về bệnh viện Walter Reed ở Washington nằm dưỡng bệnh, và Susan nói: "Anh nghĩ là em sẽ ở lại đây và để cho một cô y tá khác được chăm sóc cái thân thể tuyệt vời nầy ư? Ồ, không. Em sẽ xoay xở mọi cách để được cùng đi với anh!
Họ cưới nhau hai tuần sau đó. Robert phải mất một năm mới bình phục hoàn toàn, và suốt thời gian đó Susan chăm sóc cho mọi nhu cầu của anh, ngày và đêm. Anh chưa bao giờ gặp một ai giống như cô và cũng chưa bao giờ anh có thể tưởng tượng mình lại yêu ai đến như vậy. Anh yêu lòng trắc ẩn và sự nhạy cảm ở cô, tình yêu nồng nàn và sức sống mãnh liệt của cô. Anh yêu vẻ đẹp và tính hài hước của cô.
Vào lần kỷ niệm ngày cưới đầu tiên, anh nói với cô "Em là người phụ nữ đẹp nhất, tuyệt vời nhất, thân thương nhất trên đời nầy. Trên trái đất nầy không có ai có sự nồng ấm, hóm hỉnh và thông minh như em".
Và Susan đã ôm lấy anh thật chặt, thầm thì bằng cái giọng mũi nhưng trong trẻo của cô: "Anh cũng vậy em biết".
Họ chia xẻ với nhau không chỉ tình yêu. Họ thật sự ham muốn cũng như tôn trọng nhau. Tất cả bạn bè đều như ghen tị và mừng cho họ. Bất kỳ khi nào đó nói chuyện về một đám cưới hạnh phúc, thì Robert và Susan luôn luôn là tấm gương họ nêu ra. Họ hợp nhau về mọi mặt, thực sự là một đôi bạn tinh thần.
Susan còn la người đàn bà gợi tình nhất mà Robert từng biết và chỉ cần một lời nói, một sự đụng chạm là họ có thể làm cho nhau bừng bừng ham muốn. Một buổi tối, họ dự tính đi đến một bữa tiệc trịnh trọng, Robert đã hơi bị trễ. Anh đang đứng dưới vòi tắm hoa sen thì Susan bước vào phòng tắm với bộ váy áo hở vai, trông thật đáng yêu.
- Lạy Chúa, trông em khêu gợi quá, - Robert nói. - Thật tệ là chúng ta mất hết thì giờ rồi.
- Ôi anh đừng lo về điều đó, - Susan nhoẻn cười.
Rồi một giây sau, cô tụt váy ra và ôm chầm lấy Robert trong làn nước.
Họ không bao giờ đến được cái bữa tiệc kia.
Susan cảm nhận được những nhu cầu của Robert thậm chí còn trước cả chính anh, và cô lo liệu cho tất cả những thứ đó. Robert cũng chu đáo với cô ngang như vậy. Susan thường thấy những thư tình trên bàn trang điểm hoặc trong giầy khi cô chuẩn bị mặc quần áo. Hoa và những món quà nhỏ được gửi đến cô vào những ngày lễ nầy nọ.
Và cái chính là tiếng cười mà họ chia sẻ. Tiếng cười tuyệt vời.
***
Tiếng viên phi công chợt vang lên trong hệ thống liên lạc nội bộ.
- Thưa ông chỉ huy, mười phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh xuống Zurich.
Những ý nghĩ của Robert Benamy vụt trở lại với hiện tại, tới nhiệm vụ của anh. Trong 15 năm ở Tình báo Hải quân, anh đă từng có hàng chục trường hợp đầy thách thức, nhưng vụ nầy hẳn là vụ kỳ dị nhất. Anh đang trên đường tới Thuỵ Sĩ để tìm kiếm những nhân chứng vô danh trên một chiếc xe bus, những người đã như biến mất vào không khí rồi vậy.
Cứ cho đây là việc phải tìm một cái kim trong đồng cỏ khô đi chăng nữa thì thậm chí mình cũng không biết cái đống rơm đó nằm tại chỗ nào. Sherlock Holmes ở đâu khi mà mình cần đến ông ấy nhỉ?
- Xin ông thắt dây lưng an toàn vào cho?
Chiếc C20A đang lướt trên những khoảng rừng tối, và một giây sau, hạ cánh xuống đường băng được đánh dấu bằng những ngọn đèn hiệu hạ cánh của sân bay, hướng tới toà nhà nhỏ của bộ phận điều hành chung, tránh xa khu ga chính. Vẫn còn những vũng nước đọng trên sân do những trận mưa trước đó, nhưng bầu trời đêm thì thật trong trẻo.
- Thời tiết điên rồ, - Viên phi công nhận xét. - Chủ nhật trời nắng, mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đãng. Ở đây ông không cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông thật sự cần là một phong vũ biểu. Tôi thu xếp cho ông một chiếc ô tô chứ, ông chỉ huy?
- Không, cảm ơn.
Từ phút nầy trở đi, anh phải hoàn toàn tự mình làm mọi việc. Robert chờ cho chiếc máy bay đã chạy đi xa, rồi lên một chiếc xe bus nhỏ chạy về khách sạn trong sân bay. Ở đó, anh chìm vào một giấc ngủ không hề mơ mộng gì.
Chú thích:
(1) Một huyện của tỉnh Quảng Ngãi.
(2) Chính quyền Sài gòn
(3) MiG máy bay tiêm kích của Liên Xô, viết tắt tên hai người thiết kế là Mikoyan và Gurevich, chữ "i" nhỏ đứng giữa tương tự "&" của tiếng Anh. Trong chiến tranh, không quân Bắc Việt nam sử dụng chủ yếu MiG 21 (số lượng lúc cao nhất là 72 chiếc MiG 21). Tác giả hơi quá cường điệu về máy bay A-6A là máy bay ném bom đời cũ, bay chậm, chỉ sử dụng ở miền Nam, nơi lực lượng phòng không yếu, hoặc cùng lắm ở "Đường mòn Hồ Chí Minh" và Nam Lào, A-6A không dám xông vào khu vực Hà nội - Hải Phòng, nơi có hệ thống phòng không được coi là khá mạnh với MiG 21, tên lửa SAM-2 và pháo 100 mm, A6A càng không phải là đối thủ của MIG-21. Tỷ lệ rơi giữa F-4H và MiG-21 là 1:1, chứ không phải là 12:1 như tác giả viết. Bản thân người đánh máy đã tận mắt nhìn thấy những cuộc không chiến giữa MiG 21 và F4H trên vùng trời Thái Nguyên và Hải Phòng. Ngày 16-4-1967, chiếc F4H bị MiG 21 bắn rơi ngay trên vùng trời thành phố Hải Phòng, phi công Mỹ bị bắt tại chỗ (chú thích của người đánh máy)
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 7

Ngày thứ hai.
8 giờ 00.
Sáng hôm sau, Robert đến trước một nhân viên đang ngồi sau chiếc bàn làm việc của hãng cho thuê ô tô châu Âu.
- Xin chào, - Anh ta nói bằng tiếng Đức.
Đó là một lời nhắc nhở rằng anh đang ở trong vủng nói tiếng Đức trên đất Thuỵ Sĩ.
- Xin chào, - anh đáp lại cũng bằng tiếng Đức. - Anh có xe cho thuê không?
- Thưa ông, có. Ông sẽ cần nó trong bao lâu?
Một câu hỏi hay. Một giờ ư? Hay có thể là một năm hoặc hai năm?
- Tôi không rõ.
- Ông có định mang trả chiếc xe tại đây không?
- Có thể là như vậy.
Tay nhân viên lạ lùng nhìn anh.
- Rất tốt. Xin ông điền vào các mẫu giấy tờ nầy cho?
Robert trả tiền thuê xe bằng cái thẻ tín dụng đặc biệt màu đen mà tướng Hilliard đã đưa cho anh. Tay nhân viên xem xét tấm thẻ, lúng túng, và nói:
- Xin lỗi một chút.
- Anh ta biến mất vào một căn phòng và khi trở ra, Robert hỏi, - Có gì rắc rối không hả?
- Không, thưa ông. Không có gì cả.
Đó là một chiếc Opel Omega màu xám. Robert lái xe ra con đường cao tốc của sân bay và chạy vào thành phố. Anh rất thích Thuỵ Sĩ. Đây là một trong những đất nước đẹp nhất trên thế giới. Nhiều năm về trước, anh đã từng đi trượt tuyết ở đây, liên hệ với Espionage Abreilung - Cơ quan tình báo của Thuỵ Sĩ. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, cơ quan nầy được tổ chức thành 3 bộ phận: D, P và I, mỗi bộ phận phụ trách riêng rẽ các địa bàn Đức, Pháp và Italia.
Hiện nay, mục tiêu chính yếu của nó gắn liền với việc phát triển các hoạt động gián điệp được tiến hành trong các tổ chức khác nhau của Liên Hiệp Quốc ở Geneva.
Robert có bạn hữu trong cơ quan tình báo Thuỵ Sĩ, nhưng anh nhớ lời dặn của tướng Hilliard, "Anh không được liên hệ với bất kỳ ai trong số họ".
Quãng đường vào thành phố mất hai mươi lăm phút. Robert đến đầu mối giao thông Dubendorf rồi cho xe hướng về phía khách sạn Doler Grand. Nó vẫn đúng như anh còn nhớ: một lâu đài kiểu Thuỵ Sĩ lớn quá cỡ nhìn ra hồ Zurich với những tháp nhỏ gây ấn tượng mạnh, bao bọc bởi cây cỏ. Anh đậu xe và bước vào tiền sảnh. Phía bên trái là bàn tiếp tân.
- Xin chào.
- Xin chào. Tôi muốn có một phòng cho một đêm, được chứ?
Họ trao đổi bằng tiếng Đức.
- Vâng. Ông thanh toán thế nào ạ?
- Bằng thẻ tín dụng của tôi. - Vẫn chiếc thẻ tín dụng có màu trắng đen mà tướng Hilliard đã đưa cho anh. Robert hỏi xin một tấm bản đồ Thuỵ Sĩ và sau đó được đưa tới một căn phòng đầy đủ tiện nghi trong khu phòng mới của khách sạn. Căn phòng có một ban công nhỏ nhìn ra hồ. Robert đứng đó, hít thở khí trời mùa thu mát lành và nghĩ tới nhiệm vụ trước mắt anh.
Anh không có gì để mà tiếp tục cả. Không một dấu vết chết tiệt nào. Tất cả, các dữ liệu cho bài toán anh đều hoàn toàn không được biết. Tên của cái hãng du lịch kia. Số lượng những du khách kia. Tên tuổi và địa chỉ nào đó của họ. "Có phải tất cả các nhân chứng đều ở Thuỵ Sĩ không? - "Đó chính là khó khăn của chúng ta. Chúng ta không hề biết họ là ai, hay họ ở đâu. Và như vậy thì chỉ tìm được một vài nhân chứng đó cũng đã quá khó. "Ông phải tìm được tất cả các nhân chứng đó? Thông tin duy nhất mà anh có được là địa điểm và thời gian: Uetendort, Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười".
Anh cần có một sợi rơm, một cái gì đó để mà bám vao. Nếu anh nhớ chính xác thì tất cả những xe du lịch theo tuyến trong thời gian một ngày, chỉ xuất phát từ hai thành phố lớn Zurich và Geneva. Robert mở một ngăn kéo và lấy ra cuốn danh bạ điện thoại dầy cộp/ Mình sẽ tìm vần M, để cầu may thôi, Robert nghĩ.
Có tới gần một chục hãng du lịch được đăng ký: Sunshine Tours, Swisstour, Tour Service, Touralpino, Tourisma Reisen… Anh sẽ phải kiểm tra từng hãng một. Anh ghi lại địa chỉ của tất cả các hãng đó và lái xe tới những văn phòng của vài hãng gần đấy nhất.
Có hai nhân viên ở sau dãy bàn dài để tiếp du khách. Khi một trong hai người rảnh việc, Robert cất tiếng:
- Xin lỗi. Vợ tôi là một trong số khách đi theo tuyến của các anh chủ nhật tuần trước, và cô ấy đã để quên chiếc ví trên xe. Tôi nghĩ là cô ấy đã hồi hộp bởi vì nhìn thấy quả bóng thám không bị tai nạn ở gần Uetendort.
Tay nhân viên chau mầy.
Hẳn là ông nhầm rồi. Tuyến của chúng tôi không hề tới gần Uctendort.
- Ồ xin lỗi. - Vậy là một.
Nơi dừng chân thứ hai có vẻ có kết quả hơn.
- Tuyến du lịch của các anh có đi Uetendort không nhỉ?
- Ồ có ạ - Người nhân viên mỉm cười. - Các tuyến của chúng tôi đi đến khắp nơi trên đất Thuỵ Sĩ. Những thắng cảnh đẹp nhất. Chúng tôi có một đi Zermatt - tuyến đặc biệt. Cũng có tuyến du lịch tốc hành đi Glacier và Palm. Tuyến Vòng tròn lớn sẽ khởi hành trong…
- Có phải các anh có một chuyến đi hôm chủ nhật mà xe đã dừng lại để xem cái khinh khí cầu bị đâm vào núi đó không? Tôi hiểu là vợ tôi đã trở về khách sạn muộn và…
Người nhân viên sau bàn nói với vẻ đầy công phẫn:
- Chúng tôi rất tự hào với thực tế là các chuyến đi du lịch theo tuyến chúng tôi là không bao giờ trễ cả. Chúng tôi không dừng ngoài chương trình.
Vậy là một trong những xe của các anh đã không dừng lại để xem cái khinh khí cầu đó phải không?
- Chắc chắn là không.
- Cảm ơn. - Vậy là hai.
Văn phòng thứ ba mà Robert ghé đến đặt tại Bahnhofplatz, và tấm biển bên ngoài đề SunBhme Tours.
Robert bước đến bên chiếc bàn tiếp khách.
- Xin chào… Tôi muốn hỏi anh về một trong số những xe đi tuyến của các anh. Tôi có nghe một quả bóng thám không bị tai nạn ở gần Uetendort và người lái xe của các anh đã dừng lại nửa giờ cho du khách xem.
- Không, không. Anh ta chỉ dừng lại mười lăm phút thôi. Chúng tôi có những lịch trình rất nghiêm ngặt.
Trúng rồi.
- Ông nói là ông quan tâm đến chuyện gì trong việc nầy nhỉ? - Nhân viên Hãng du lịch hỏi khi thấy khách im lặng.
Robert móc ra một trong những tấm các đã được trao cho anh.
- Tôi là phóng viên, - Robert nói một cách sốt sắng. - Và tôi đang viết cho Tạp chí Du lịch và sự thanh thản về hiệu quả của xe bus ở Thuỵ Sĩ, so sánh với các nước khác. Tôi không biết liệu tôi có thể phỏng vấn người lái xe của các anh được không?
- Đó sẽ là một bài báo thú vị đấy. Rất thú vị là đằng khác. Người Thuỵ Sĩ chúng tôi tự hào về hiệu quả làm việc của mình.
- Và niềm tự hào đó là xứng đáng, - Robert quả quyết với anh ta.
- Liệu tên Hãng chúng tôi có được nhắc đến không?
- Sẽ ở vị trí nổi bật đấy.
Tay nhân viên mỉm cười.
- Ồ vậy thì tôi thấy không có gì bất lợi cả.
- Tôi có thể nói chuyện với anh ta ngay bây giờ được không?
- Hôm nay là ngày nghỉ của ông ta. - Anh ta viết một cái tên lên mẩu giấy.
Robert Bellamy đọc ngược dòng chữ Hans Beckerman.
Tay nhân viên viết thêm địa chỉ.
- Ông ta ở Kapel. Đó là một làng nhỏ, cách Zurich chừng 40 kilômét. Lúc nầy thì ông sẽ có thể tìm thấy ông ta ở nhà.
Robert Bellamy cầm lấy mẩu giấy.
- Rất cám ơn anh. Nhân tiện, - Robert nói, - để chúng tôi có đầy đủ các dữ kiện cho câu chuyện, anh có biết số lượng vé đã bán ra cho chuyến đi đó không?
- Tất nhiên. Chúng tôi lưu hồ sơ về tất cả các chuyến du lịch. Xin đợi một phút. - Anh ta nhấc một cái cặp phía dưới bàn và giở một trang ra.
- À, đây rồi. Chủ nhật, Hans Beckerman. Có 7 hành khách. Anh ta lái chiếc Iveco ngày hôm đó, chiếc xe bus nhỏ.
Bảy người khách vô danh và người lái xe. Robert cố cầu may.
- Anh có tên những du khách đó không?
- Thưa ông, người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường. Chúng tôi không yêu cầu một thứ giấy tờ gì.
Tuyệt thật.
- Một lần nữa, cảm ơn anh nhé. - Robert đi ra phía ngoài cửa.
Tay nhân viên với theo:
- Tôi mong ông sẽ gửi cho chúng tôi một bản của bài báo nhé.
- Chắc chắn rồi. - Robert đáp.
***
Chi tiết đầu tiên của vấn đề là chiếc xe bus, và Robert lái xe đến Talstrassr, nơi những chiếc xe bus khởi hành, thầm mong nó có thể để lộ một dấu vết nào đó. Chiếc xe Iveco sơn màu nâu và trắng bạc, nhỏ vừa đủ để có thể vượt những con đường dốc của dãy núi Alps, với mười bốn ghế ngồi dành cho khách. Bảy người đó là ai, và họ đã biến đi đường nào?
Robert ngồi vào xe của mình. Anh xem bản đồ và đánh dấu đường đi. Anh đi đường Lavessneralle ra khỏi thành phố, tới vùng Albis, nơi bắt đầu dãy núi Alps, và hướng tới làng Kapel. Anh chạy theo hướng nam, ngang qua dẫy đồi nhỏ bao quanh Zurich và bắt đầu leo lên dây Alps huyền diệu. Anh lái xe chạy qua Adliswil, Langnau và Hausen và bao nhiêu làng mạc vô danh khác với những ngôi nhà nhỏ làm bằng gỗ và quang cảnh đẹp như tranh. Gần một tiếng sau, anh tới Kapel. Ngôi làng nhỏ nầy có một tiệm ăn, một nhà thờ, một bưu điện và khoảng hơn một chục ngôi nhà nằm rải rác quanh những quả đồi. Robert đỗ xe và bước vào tiệm ăn. Một cô hầu bàn đang lau chùi cái bàn gần cửa ra vào.
- Xin chào cô. Cô có biết nhà ông Beckerman ở đâu không? - Anh nói bằng tiếng Đức.
- Dạ. - Cô gái chỉ tay dọc theo con đường. - Phía cuối kia kìa.
- Cảm ơn.
Robert rẽ phải chỗ cái nhà thờ và chạy đến một ngôi nhà hai tầng xây bằng đá vẻ khiêm nhường, với mái ngói. Anh ra khỏi xe và bước đến trước cửa. Không nhìn thấy chuông, anh đành phải gõ cửa.
Một người phụ nữ to lớn với hàng ria mép mờ mờ ra mở cửa.
- Có gì vậy?
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
- Xin lỗi vì đã làm phiền chị. Ông Beckerman có nhà không ạ?
Chị ta nhìn anh có vẻ nghi ngờ.
- Ông muốn gì ở ông ấy hả?
Robert trao cho chị ta một nụ cười thật quyến rũ.
- Chị hẳn phải là vợ của ông Beckerman. - Anh móc cái thẻ phóng viên ra. - Tôi đang làm một bài trên tạp chí về những người lái xe bus Thuỵ Sĩ, và chồng chị được giới thiệu với tạp chí của tôi là một trong những người lái xe an toàn nhất nước.
Gương mặt chị ta sáng lên và nói một cách đầy tự hào:
- Hans của tôi là một người lái xe tuyệt vời.
- Chị Beckerman, đó là điều mà mọi người đều nói với tôi. Tôi muốn được phỏng vấn ông ấy.
- Phỏng vấn Hans của tôi cho một tờ tạp chí ư? - Chị ta đỏ bừng mặt. - Điều đó thật thú vị. Xin mời vào.
Chị ta dẫn Robert vào một căn phòng khách nhỏ và gọn gàng ngăn nắp.
- Xin chờ ở đây. Tôi sẽ gọi Hans.
Ngôi nhà có trần thấp nhưng sáng sủa, sàn nhà bằng gỗ màu sẫm, đồ đạc bằng gỗ trong nhà khá giản dị. Có một cái lò sưởi bằng đá và những tấm rèm treo trên các cửa sổ.
Robert đứng đó ngẫm nghĩ. Đây không chỉ là đầu mối tốt nhất mà còn là đầu mối duy nhất của anh.
"Người ta từ ngoài đường bước vào, mua vé và lên đường Chúng tôi không yêu cầu một thứ giấy tờ gì…"
Từ đây mình còn chưa biết sẽ đi đâu, Robert nhăn nhó nghĩ. Nếu ở đây không ổn, mình luôn luôn có thể cho đăng một lời rao:
"Xin mời bảy du khách trên chiếc xe bus đã nhìn thấy vụ tai nạn khinh khí cầu hôm chủ nhật đến phòng khách sạn của tôi vào lúc mười hai giò trưa mai. Sẽ có bữa điểm tâm".
Một người đàn ông mảnh khảnh và hói đầu xuất hiện. Nước da ông mai mái và ông ta để một bộ ria mép dầy, đen rất không hợp với toàn bộ vẻ ngoài của mình.
- Xin chào ông.
- Tôi là Smith. Xin chào ông. - Giọng Robert đầy nhiệt tình. - Tôi đang rất mong ngóng được gặp ông, ông Beckerman.
- Vợ tôi nói là ông đang viết một câu chuyện về những người lái xe bus chúng tôi. - Ông ta nói với một giọng Đức nặng trịch.
Robert nở một nụ cười với vẻ tranh thủ tình cảm.
- Đúng thế. Tờ tạp chí của tôi rất quan tâm đến hồ sơ lái xe an toàn tuyệt vởi của ông và…
- Thôi đi. - Beckerman thô lỗ cắt ngang. - Ông quan tâm tới cái vụ tai nạn chiều hôm qua, không phải thế ư?
Robert làm ra vẻ lúng túng.
- Sự thực là, vâng, tôi cũng muốn bàn cả chuyện đó nữa.
- Vậy thì sao ông không nói thẳng ra hả? Ngồi xuống.
- Cảm ơn. - Robert ngồi xuống chiếc đi văng.
Beckerman nói:
- Tôi lấy làm tiếc là không thể mời ông uống một chút, nhưng quả là chúng tôi không còn trữ sẵn rượu trong nhà. - Ông ta đập đập tay vào bụng. - Loét dạ dày. Thậm chí các thầy thuốc không thể cho tôi thuốc giảm đau được. Tôi phản ứng với tất cả các loại đó. - Ông ta ngồi xuống phía đối diện với Robert. - Nhưng mà ông không đến đây để nói về sức khoẻ của tôi có phải không, hả? Ông muốn biết gì nào?
- Tôi muốn nói chuyện với ông về những người khách đi trên chiếc xe của ông hôm chủ nhật, mà ông dừng lại gần Uetendort nơi quả bóng thám không đâm vào núi ấy.
Hans Beckerman nhìn anh chòng chọc.
- Bóng thám không nào? Ông nói chuyện gì vậy?
- Quả bóng mà…
- Ông nói con tàu không gian ấy ư?
Đến lượt Robert kinh ngạc.
- Tàu… không gian?
- Phải, một cái đĩa bay.
Phải mất một giây để những lời nầy được cảm nhận hết. Robert thấy ớn lạnh một cách đột ngột.
- Có phải ông đang nói với tôi là ông đã nhìn thấy một cái đĩa bay không?
- Phảỉ. Với những xác chết trong đó.
"Ngày hôm qua, ở vùng núi Alps, Thuỵ Sĩ, một quả bóng thám không thời tiết của NATO đâm vào núi, có một vài dụng cụ thí nghiệm quân sự tối mật trên quả cầu đó".
Robert phải rất cố gắng để giữ vẻ bình tĩnh.
Ông Beckerman, ông có chắc chắn cái mà ông đã nhìn thấy là một đĩa bay không hả?
- Tất nhiên. Cái mà họ gọi là một vật thể bay lạ.
- Và có những người chết ở trong đó?
- Không phải là người, không phải. Những sinh vật. Rất khó mô tả họ. - Ông ta hơi rùng mình. - Họ rất nhỏ với những đôi mắt to, rất lạ. Họ mặc những bộ quần áo có màu kim loại bạc. Trông rất sợ.
Robert lắng nghe, đầu óc anh rối bời.
- Những hành khách của ông có trông thấy không?
- Ồ có. Tất cả chúng tôi đều trông thấy. Tôi đã dừng ở đó có tới mười lăm phút ấy. Họ muốn chúng tôi dừng lại lâu hơn, nhưng hãng luôn rất nghiêm ngặt về lịch trình.
Robert biết câu hỏi là vô ích thậm chí trước cả lúc anh nói ra.
- Ông Beckerman, ông có biết tên của một hành khác nào trong số đó không?
- Thưa ông, tôi là người lái xe. Hành khách mua vé ở Zurich và chúng tôi đưa họ đi về phia táy nam đến Interlaken và rồi theo hướng tây-bắc tơi Bern. Họ có thể hoặc là xuống Bern, hoặc trở về Zurich. Không ai cho biết tên cả.
- Ông không có cách nào để nhận diện bất kỳ ai trong số họ à? - Robert nói một cách tuyệt vọng.
Người lái xe bus ngẫm nghĩ giây lát.
- Ồ tôi có thể nói với ông là trên thuyến đó không có trẻ em. Toàn đàn ông.
- Chỉ có đàn ông thôi hả?
Beckerman ngẫm nghĩ.
- Không, không phải thế. Cũng có một phụ nữ.
Kinh khủng. Điều đó thật sự thu hẹp thêm khả năng tìm kiếm, Robert nghĩ. Câu hỏi tiếp theo: Quái quỷ thế nào mà mình lại nhận cái nhiệm vụ nầy cơ chứ?
- Ông Beckerman, ông đang nói là một nhóm du khách lên chiếc xe bus của ông ở Zurich và rồi khi chuyến đi kết thúc thì đơn thuần là họ tản đi có phải vậy không?
- Đúng thế, ông Smith.
Vậy là thậm chí không có cả cái đống cỏ khô.
- Ông có nhớ bất kỳ điều gì về số hành khách không? Bất kỳ điều gì họ đã nói hoặc làm?
Beckerman lắc đầu.
- Thưa ông, để ý đến họ làm gì, miễn là được trả tiền thôi chứ. Trừ phi họ gây rắc rối gì. Như cái ông người Đức đó.
Robert ngồi im phăng phắc. Anh nhẹ nhàng hỏi:
- Người Đức nào?
- Tất cả những hành khách khác đều hứng thú xem cái vật thể bay lạ kia và những sinh vật chết trong đó, thế mà cái lão già nầy cứ phàn nàn đòi chúng tôi phải nhanh lên để đến Bern vì lão ta phải chuẩn bị bài giảng gì đó cho trường đại học vào buổi sáng…
Mọi sự bắt đầu đây.
- Ông có còn nhớ gì khác về ông ta không?
- Không.
- Không gì cả ư?
- Ông ta mặc một cái áo choàng màu đen.
Tuyệt.
- Ông Beckerman nầy, tôi muốn nhờ ông một việc. Ông có thể chở tôi đến Uctendort được không?
- Hôm nay là ngày nghỉ của tôi. Tôi bận với…
- Tôi rất vui lòng được trả công ông mà.
- Thế hả?
- Hai trăm đồng mác.
- Tôi không…
- Tôi sẽ trả bốn trăm mác.
Beckerman nghĩ một chút.
- Sao lại không nhỉ? Đi chơi hôm nay cũng đẹp trời đấy chứ?
Họ đi về phía nam, qua Luzern và những làng đẹp như tranh vẽ ở Immensee và Meggen. Phong cảnh đẹp đến ngợp thở, nhưng đầu óc Robert còn mải với những chuyện khác.
Họ chạy qua Engelberg, với tu viện cổ Benedictine, và Brunig, con đèo dẫn tới vùng Interlaken. Xe họ băng qua Leissigen và Faulensse, với một hồ lớn xanh thẳm điểm những cánh buồm trắng xoá.
- Còn bao xa nữa? - Robert hỏi.
- Sắp tới rồi, - Hans Beckerman hứa.
Sau khi chạy được gần một giờ thì họ tới Spiez.
Hans Beckerman nói:
- Bây giờ thì không còn xa nữa. Chỉ qua Thun là tới.
Robert cảm thấy tim mình bắt đầu đập nhanh hơn.
- Anh sắp được chứng kiến một thứ gì đó vượt khỏi sức tưởng tượng, những người khách xa lạ từ những hành tinh khác. Họ chạy qua Thun, một ngôi làng nhỏ, và ít phút sau khi họ đến gần một cánh rừng gần xa lộ Hans Beckerman đưa tay chỉ và nói:
- Kia, kìa.
Robert đạp phanh và dừng lại bên đường.
- Bên kia kìa. Sau những cái cây đó.
Robert thấy cái cảm giác hồi hộp mỗi lúc một tăng.
- Được. Chúng ta hãy nhìn xem.
Một chiếc xe vận tải chạy qua. Khi nó đi khỏi, Robert và Hans Beckerman đi sang đường. Robert đi theo người lái xe bus ngược lên một đoạn dốc dẫn tới cánh rừng.
Con đường đã hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt. Lúc họ bước tới một quãng trống, Beckerman lớn tiếng nói:
- Đúng chỗ nầy đây.
Nằm trên mặt đất phía trước họ là những mảnh vụn nát của một quả bóng thám không.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 8

Mình đã quá già trong nghề nầy mất rồi, Robert mệt mỏi nghĩ. Mình đã thực sự mê muội vì câu chuyện đĩa bay của hắn.
Hans Beckerman nhìn đăm đăm vào cái thứ đang nằm trên mặt đất, một vẻ bối rối hiện lên trên gương mặt ông ta.
- Mẹ kiếp, không phải nó.
Robert thở dài.
- Không phải nó, có phải không?
Beckerman lắc đầu.
- Nó đã ở đây ngày hôm qua mà.
- Có thể là những người nhỏ bé màu xanh của ông đã chở nó đi rồi đấy.
- Không, không. Họ chết cả rồi. - Beckerman khăng khăng.
Chết. Điều đó là lời kết luận chính xác cho cái sứ mệnh của mình. Đầu mối duy nhất của mình là một thằng điên nhìn thấy những con tàu không gian.
Robert bước đến bên mảnh quả cầu để xem xét nó một cách cẩn thận hơn. Nó là một cái bao nhôm lớn có đường kính khoảng năm mét, với những cạnh răng cưa nơi nó bị rách ra khi đâm xuống đất. Tất cả các thiết bị đã được mang đi, đúng như tướng Hilliard đã nói với anh. "Tôi không thể nào nói hết tầm quan trọng của những gì chứa trong quả cầu đó"
Robert đi vòng quanh quả cầu xẹp lép, sục mũi giầy trong đám cỏ ướt tìm kiếm một dấu vết mờ nhạt nhất có thể có. Không có gì. Nó giống hệt hàng chục quả bóng thám không thời tiết khác mà anh đã từng nhìn thấy trong những năm qua.
Ông già vẫn không chịu đầu hàng, vẫn đầy cái vẻ ương ngạnh rất Đức. "Những thứ lạ lùng đó… Họ làm chúng giống như thế nầy nầy. Ông biết đấy, họ có thể làm được mọi thứ".
Không còn gì để làm ở đây nữa, Robert quyết định.
Bít tất của anh đã ướt hết vì những đám cỏ ướt. Anh bước đến bên cái vỏ quả cầu.
- Ông giúp tôi nâng cái góc nầy lên chứ?
Beckerman nhìn anh một chút, ngạc nhiên.
- Ông muốn tôi nâng nó lên ư?
- Phải.
Beckerman nhún vai. Ông ta cầm một góc của cái thứ vật liệu rất nhẹ kia và nâng lên trong khi Robert nâng một góc khác. Anh nâng mảnh nhôm lên cao quá đầu và bước vào phía trong. Hai chân anh ngập trong cỏ.
- Ở dưới nầy cũng ướt. - Robert gọi với ra.
- Tất nhiên. Trời mưa suốt cả ngày hôm qua. Toàn bộ mặt đất đều ướt.
Robert từ bên dưới quả cầu chui ra.
- Đáng ra nó phải khô.
"Thời tiết điên rồ, viên phi công nói. "Chủ nhật trời nắng?" Đó là ngày quả cầu đâm xuống đất. Mưa suốt ngày hôm nay và đêm lại quang đãng. Ở đây ông không cần đến đồng hồ đâu. Cái mà ông thật sự cần là một cái phong vũ biểu.
- Cái gì hả?
- Thời tiết thế nào khi ông ta nhìn thấy cái vật thể bay lạ?
Beckerman ngẫm nghĩ một lát.
- Đó là một buổi chiều đẹp trời.
- Trời nắng chứ?
- Vâng. Trời nắng.
- Nhưng trời mưa suốt cả ngày hôm qua phải không?
Beckerman nhìn anh, khó hiều.
- Vậy thì sao?
- Vậy thì nếu quả câu nầy ở đây suốt đêm, mặt đất bên dưới nó phải khô, hoặc cùng lắm là ẩm thôi do sự thẩm thấu. Thế nhưng nó lại ướt đẫm, giống như phần còn lại ở khu vực nầy.
Beckerman ngẩn ra.
- Tôi không hiểu. Điều đó có nghĩa là thế nào?
- Nó có thể có nghĩa là, - Robert nói một cách thận trọng, - ai đó đã đặt quả cầu nầy ở đây ngày hôm qua sau khi trời đã bắt đầu mưa và mang đi cái mà ông đã nhìn thấy.
Hay có cách giải thích nào đó điên rồ hơn mà anh chưa nghĩ tới? Ai lại làm một cái việc điên khùng như vậy?
Không điên đến thế đâu, Robert nghĩ. Chính phủ Thuỵ Sĩ có thể đã làm việc nầy để đánh lừa bất kỳ một vị khách tò mò nào. Cái mẹo đầu tiên cửa một việc bưng bít là tưng tin giả. Robert bước qua đám cỏ ướt chăm chú nhìn mặt đất và tự mắng mình là một kẻ khờ dại cả tin.
Hans Beckerman nghi hoặc nhìn Robert.
- Nầy ông, ông nói là ông viết cho tạp chí nào nhỉ?
- Du lịch và Sự thanh thản.
Hans Beckerman mừng rỡ.
- Ồ. Vậy thì tôi cho rằng ông sẽ muốn chụp ảnh tôi giống như cái thằng cha kia.
- Cái gì?
- Cái tay chụp ảnh đã chụp hình bọn tôi ấy mà.
- Ông đang nói đến ai vậy? - Robert cau mầy.
Cái tay chụp ảnh. Tay đó đã chụp ảnh cho chúng tôi trước cái xác con tàu. Hắn ta nói sẽ gửi cho chúng tôi mỗi người một tấm. Một vài người khách khác cũng có máy ảnh.
Robert nói từ tốn:
- Hãy khoan nào. Ông đang nói là có ai đó đã chụp hình các du khách kia ở đây ngay trước cái vật thể bay lạ phải không?
- Đó chính là điều tôi đang nói với ông đấy.
- Và ông ta hứa gửi cho mỗi người các ông một tấm ảnh?
- Đúng vậy.
- Vậy thì ông ta hẳn phải lấy tên và địa chỉ của các ông chứ?
- Ồ tất nhiên. Nếu không thì ông ta biết gửi chúng đi như thế nào được?
Robert đứng lặng người, toàn thân nóng bừng bừng.
Sự tình cờ tuyệt vời, Robert, mi là một thằng không may mắn. Một sứ mạng bất khả thi bỗng đột ngột trở thành một miếng bánh. Anh không còn phải đi tìm bẩy du khách vô danh kia nữa. Tất cả những gì mà anh phải làm là tìm tay chụp ảnh.
***
- Sao lúc trước ông không nhắc đến ông ta, ông Beckerman?
- Ông hỏi tôi về những hành khách kia mà.
- Ý ông nói ông ta không phải là một hành khách của ông à?
Hans Beckerman lắc đầu.
- Không - Ông ta chỉ tay. - Xe của ông ta bị chết máy phía bên kia xa lộ. Một chiếc xe cẩu đang sắp sửa lôi nó đi thì xảy ra vụ nầy với chấn động mạnh, và ông ta chạy sang đường để xem có chuyện gì xảy ra. Khi nhìn thấy nó, ông ta trở về xe, chộp lấy máy ảnh và quay trở lại. Thế rồi ông ta bảo tất cả chúng tôi đứng vào để chụp hình trước cái đĩa bay đó.
Cái người chụp ảnh đó có nói tên với ông không?
- Không.
- Ông có nhớ gì về ông ta không?
Hans Beckerman cố tập trung trí nhớ.
- Ồ, ông ta là một người ngoại quốc. Người Mỹ hoặc Anh.
- Ông nói là một chiếc xe cẩu đã sẵn sàng lôi xe của ông ta đi?
Đúng thế.
- Ông có nhớ chiếc xe cẩu chạy đi đường nào không?
- Phía bắc. Tôi đoán rằng ông ta mang nó đi Bern. Thun thì gần hơn nhưng vào chủ nhật thì mọi ga-ra ở Thun đều đóng cửa.
- Cám ơn ông. Ông đã giúp tôi rất nhiều. - Robert mỉm cười.
- Ông sẽ không quên gửi cho tôi bài báo của ông sau khi kết thúc chứ?
- Không. Đây là tiền của ông và thêm một trăm mác cho sự giúp đỡ của ông. Tôi sẽ đưa ông về nhà.
Họ đi về xe. Khi Beckerman mở cửa xe, ông ta dừng lại và quay sang Robert.
- Ông thật là hào phóng. - Ông ta móc trong túi ra một miếng kim loại nhỏ hình vuông, cỡ bằng cái bật lửa, có chứa một tinh thể màu trắng nhỏ xíu.
- Cái gì thế nầy?
- Tôi đã thấy nó trên mặt đất hôm chủ nhật trước lúc chúng tôi quay lại xe.
Robert xem xét cái vật lạ lùng kia. Nó nhẹ như giấy và có màu của cát. Một cạnh ráp của nó cho thấy nó có thể là một phần của bộ phận khác. Một phần của cái thiết bị chứa trong quả bóng thám không kia? Hay một phần của một vật thể bay lạ?
- Có thể nó sẽ mang lại may mắn cho ông, - Beckerman nói trong lúc ông ta đang xếp những đồng tiền mà Robert vừa đưa cho ông ta vào ví. - Với tôi thì đã hẳn là thế rồi. - Ông ta ngoác miệng cười và chui vào xe.
***
Đã đến lúc phải tự hỏi mình một câu hỏi nghiêm túc: Mình có thật sự tin có những vật thể bay lạ không? Anh đã đọc nhiều bài báo điên rồ của những g người nói là họ đã thấy những con tàu không gian và đủ loại chuyện kỳ quặc khác và anh đã thường gắn những tin tức nầy với những người hoặc là tìm kiếm sự nổi tiếng hoặc là cần phải tự tìm đến sự giúp đỡ của một bác sĩ tâm thần giỏi. Nhưng trong mấy năm gần đây, có những tin tức không dễ gì bác bỏ được. Các tin tức về việc nhìn thấy các vật thể bay lạ bởi các nhà du hành vũ trụ, các phi công quân sự các viên chức cảnh sát, những người có uy tín những người né tránh sự xuất hiện trước công chúng.
Thêm vào đó là tin đáng quan ngại về một vật thể lạ đâm xuống Roswell bang New Mexico, nơi dường như đã tìm thấy xác của những sinh vật lạ. Chính phủ bị cho là đã bưng bít chuyện đó và đã mang đi mọi bằng chứng. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, các phi công đã báo cáo về việc nhìn thấy những thứ lạ lùng mà họ gọi là những chiếc máy bay tiêm kích Foo, những vật thể bay không xác định được lai lịch bay sát tới họ và rồi biến mất. Có những câu chuyện về những thị trấn được viếng thăm bởi những vật thể không giải thích được từ trên trời bay vút xuống. Nếu thật sự có những sinh vật lạ trong các vật thể bay lạ từ một hệ mặt trời khác đến thì sao? Robert phân vân. Điều đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến thế giới của chúng ta? Liệu điều đó sẽ có nghĩa là hoà bình? Chiến tranh? Sự chấm dứt của nền vản minh mà chúng ta đã biết chăng? Anh thấy minh phần nào mong rằng Hans Beckerman là một kẻ ngớ ngẩn điên rồ, và thật sự là quả bóng thám không thời tiết đã đâm xuống đất. Anh sẽ phải tìm một nhân chứng khác để hoặc là xác nhận câu chuyện của Beckerman hoặc là bác bỏ nó. Nhìn bề ngoài, câu chuyện dường như không thể tin được, thế nhưng có một điều gì đó làm bận tâm Robert: Giá như nó chỉ là một quả bóng thám không gặp nạn, thậm chí nó có mang những thiết bị đặc biệt chăng nữa, vì sao mình lại bị gọi đến một cuộc gặp gỡ tại NSA vào lúc 6 giờ sáng và được cho biết điều khẩn cấp là phải nhanh chóng tìm ra tất cả các nhân chứng? Có một vụ bưng bít nào không?
Và nếu vậy thì vì sao?
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 9

Cuối ngày hôm đó, một cuộc họp báo được tổ chức tại Geneva, trong khu văn phòng giản dị của Bộ Nội vụ Thuỵ Sĩ. Có tới hơn năm chục phóng viên có mặt trong phòng và cả một đám đông ở ngoài hành lang. Có các đại diện phát thanh, truyền hình và báo chí từ hơn một chục nước, nhiều người trong số họ lỉnh kỉnh với micrô và các thiết bị ghi hình. Dường như tất cả bọn họ đều đang cất tiếng cùng một lúc.
- Chúng tôi nghe tin tức nói rằng đó không phải là một quả bóng thám không thời tiết…
- Có phải đó là một cái đĩa bay không?
- Tin đồn rằng cô những xác chết lạ ở trên con tàu…
- Có phải một sinh vật lạ còn sống không?
- Phải chăng chính phủ đang tìm cách che giấu sự thật trước nhân dân?
Vị quan chức báo chí cất cao giọng để lấy lại trật tự:
- Thưa các quý vị, đã có một sự hiểu lầm đơn giản. Chúng tôi liên tục nhận được những cú điện thoại kiểu nầy. Người ta nhìn thấy những vệ tinh, sao băng… Chẳng nhẽ không phải là thú vị sao khi mà những tin tức về các vật thể bay lạ luôn luôn được đưa ra dưới dạng nặc danh? Có thể người báo tin nầy thật sự tin đó là một vật thể bay lạ, nhưng trên thực tế, chỉ là một quả bóng thám không bị rớt xuống mặt đất. Chúng tôi đã thu xếp phương tiện để đưa các bạn tới đó. Xin mời quý vị theo tôi…
Mười lăm phút sau, hai xe bus chở đầy các phóng viên và các camera ghi hình đã lên đường đi Uctendort để mục kích những gì còn lại của vụ tai nạn bóng thám không? Khi tới nơi, họ đứng trong đám cỏ ướt xem xét cái vỏ kim loại rách toác. Vị quan chức báo chí nói:
- Đây là cái đĩa bay bí ẩn của các vị. Nó đã xuất phát từ căn cứ không quân của chúng tôi ở Vevey. Theo chỗ chúng tôi biết, thưa quý vị, không hề có những vật thể bay lạ mà chính phủ chúng tôi không thể giải thích một cách xác đáng và cũng theo chỗ chúng tôi biết, không có bất kỳ một vị khách lạ nào tới thăm chúng ta. Chính sách dứt khoát của chính phủ chúng tôi là nếu như thu được bất kỳ băng chứng nào về vấn đề nầy, lập tức chúng tôi sẽ để điều đó trở thành thông tin đại chúng. Nếu như không còn câu hỏi nào nữa…
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 10

Nhà để máy bay số 17 tại căn cứ không quân Langley ở bang Virginia được khoá kín và bảo vệ nghiêm ngặt. Bên ngoài, bốn lính thuỷ đánh bộ canh gác toà nhà và bên trong, ba sĩ quan cấp cao của Lục quân luân phiên nhau mỗi người tám giờ canh gác một căn phòng luôn đóng kín. Không một sĩ quan nào biết anh ta đang canh gác cái gì. Ngoài các nhà khoa học và các bác sĩ đang làm việc trong đỏ, chỉ có ba người khách được phép bước vào căn phòng đóng kín kia.
Vị khách thứ tư vừa mới tới. Ông ta được thiếu tướng Paxton, người phụ trách an mnh, ra đón.
- Xin mời thăm chuồng thú của chúng tôi.
- Tôi đã rất mong đợi điều đó.
- Ông sẽ không phải thất vọng. Xin đi lối nầy.
Bên ngoàì cửa phòng đóng kín là một cái giá với bốn bộ quần áo khử trùng, trắng tinh có thể bao kín toàn bộ cơ thể.
- Xin ông vui lòng mặc lên người cho! - Viên tướng nói.
- Tất nhiên rồi. - Janus chui người vào trong bộ quần áo. Chỉ còn có thể thấy mặt ông ta qua tấm che mặt bằng kính. Ông ta mang hai cái ủng trắng to tướng ra bên ngoài đôi giày của mình và viên tưóng dẫn ông ta tới cửa căn phòng đóng kín kia. Người lính gác đứng tránh sang một bên, và viên tướng mở cửa.
- Trong nầy đây.
Janus bước vào phòng và nhìn quanh. Ở chính giữa phòng là chiếc phi thuyền không gian. Trên những chiếc bàn mổ ở phía bên là xác của hai sinh vật lạ.
Một nhà nghiên cứu bệnh học đang thực hiện một ca giải phẫu trên một trong hai cái xác.
Tướng Paxton hướng sự chú ý của vị khách tới chiếc phi thuyền.
- Chúng tôi đang xem xét ở đây cái mà chúng tôi cho là một con tàu do thám, - tướng Paxton giải thích. - Chúng tôi tin chắc rằng nó có một kênh liên lạc trực tiếp nào đó với phi thuyền mẹ.
Hai người bước lại gần hơn để xem xét. Đường kính của nó xấp xỉ chục mét. Phần bên trong có hình dạng như một viên ngọc với cái trần có thể mở rộng ra được và ba cái đi văng giống như những chiếc ghế bố phân vách được phủ bằng những tấm panen có gắn những đĩa kim loại rung.
- Có rất nhiều thứ chúng tôi chưa thể hiểu được, - tướng Paxton thú nhận. - Nhưng mà những gì chúng tôi đã biết thì thật đáng ngạc nhiên - Ông ta chỉ một dãy thiết bị trên những tấm panen nhỏ. - Đó là một hệ thống kính quang học mạch liên hợp có góc nhìn rộng, có vẻ là một hệ thống dò tìm sự sống, một hệ thống dẫn đường mà nói thẳng ra là nó khiến chúng ta mù tịt và một hệ thống thông tin có khả năng tổng hợp ngôn ngữ. Chúng tôi nghĩ là nó hoạt động bằng một dạng năng lượng điện từ trường nào đó.
- Có vũ khí nào trên đó không? - Janus hỏi.
Tướng Paxton giang rộng hai tay trong một cử chỉ tỏ ý thất bại.
- Chúng tôi không rõ. Có rất nhiều thiết bị trên đó mà chúng tôi chưa hiểu.
- Còn nguồn năng lượng thì sao?
- Phán đoán cao nhất của chúng tôi là nó sử dụng hyđrô đơn nguyên tử trong một mạch kín để chất thải của nó, nước, có thể được liên tục tái chế thành hyđrô sản sinh năng lượng. Với nguồn năng lượng vĩnh viên ấy nó có thể thoải mái bay trong khoảng không gian liên hành tinh. Có thể phải mất nhiều năm chúng ta mới biết hết những bí mật ở đây. Và còn có một điều kinh ngạc nữa. Xác chết của hai sinh vật lạ được chằng trên ghế của họ. Nhưng những vết lõm ở trên ghế thứ ba cho thấy nó cũng có một chủ nhân.
- Ông đang nói, - Janus từ tốn hỏi, - rằng có thể một sinh vật đang mất tích ư?
- Dường như chắc chắn là thế.
Janus đứng yên với một thoáng chau mầy.
- Chúng ta hãy nhìn các kẻ xâm nhập nầy một chút.
Hai người bước lại những chiếc bàn trên đó có xác hai sinh vật lạ. Janus đứng nhìn chằm chằm vào những hình thù kỳ dị kia. Thật khó tin là những sinh vật có trí tuệ. Trán của chúng lớn hơn mức ông ta tưởng. Họ đều hói đầu và không có lông mi cũng như lông mày. Mắt của họ trông giống như những quả bóng bàn vậy.
Người bác sĩ đang tiến hành phẫu thuật ngẩng lên khi hai người bước lại.
- Thật kỳ lạ, - Ông ta nói. - Một bàn tay đã được cắt khỏi thân thể một trong hai sinh vật lạ. Không hề thấy có máu, nhưng ở trong những ống, có thể là mạch ven, có một chất lỏng màu xanh. Phần lớn đã chảy hết ra ngoài.
- Một chất lỏng màu xanh à? - Janus hỏi.
- Phải, - Người bác sĩ lưõng lự. - Chúng tôi cho là những sinh vật nầy là một dạng của đời sống thực vật.
- Một loài thực vật biết nghĩ ư? Ông nói nghiêm túc đấy chứ?
- Hãy nhìn cái nầy. - Người bác sĩ nhấc một can nước và dội lên cánh tay của sinh vật đã mất một bàn tay. Trong khoảnh khắc, không có chuyện gì xảy ra. Và rồi bỗng nhiên, tại đầu cụt của cánh tay, một thứ chất màu xanh lục ứa ra và từ từ hình thành một bàn tay.
Hai người nhìn chết lặng.
- Giêxu. Những sinh vật nầy đã chết hay chưa thế nầy?
Đó là một câu hỏi thú vị. Những cơ thể nầy không còn sống, theo cảm nhận của con người, thế nhưng chúng cũng không phù hợp với định nghĩa về sự chết.
- Tôi chỉ cho là họ đang ở trạng thái ngủ đông mà thôi.
Janus vẫn đang nhìn đăm đăm vào cái bàn tay vừa được hình thành.
- Nhiều thực vật cho thấy các dạng thông minh khác nhau.
- Thông minh ư?
- Ồ phải. Có những loài cây tự nguy trang mình, tự bảo vệ bản thân chúng. Lúc nầy, chúng ta đang có những thí nghiệm kinh hoàng về đời sống thực vật.
- Tôi muốn được xem những thí nghiệm đó. - Janus nói.
- Được thôi. Tôi sẵn sàng thu xếp.
***
Căn nhà kính thí nghiệm khổng lồ nằm trong một khu liên hợp của chính phủ cách Washington 30 dặm.
Trên tường là một tấm biển đề:
"Những cây thích và những cây dương xỉ vẫn không hề mục nát, Tuy nhiên, không có gì phải nghi ngờ khi chúng bừng tỉnh. Chúng cũng sẽ nguyền rủa và thề nguyện. Ralph Waldo Emerson Thiên nhiên, 1836."
Giáo sư Rachman, người phụ trách khu liên hợp nầy là một ông thần giữ của sốt sắng, đầy nhiệt huyết với nghề nghiệp của mình.
- Chính Charles Darwin là người đầu tiên nhận biết được khả năng suy nghĩ của cỏ. Luther Burbank đã tiếp nối bằng việc giao tiếp với chúng.
- Ông có thật sự tin rằng có thể có điều đó không?
- Chúng tôi biết là có điều đó. George Washington Carver đã chuyện trò với cây cối và chúng đã cho ông hàng trăm sản phẩm mới. Carver nói. Khi tôi chạm vào một bông hoa, nghĩa là tôi đang chạm vào Thượng đế. Nhưng bông hoa có mặt trước loài người từ lâu trên trái đất nầy, và chúng sẽ tiếp tục tồn tại hàng triệu năm sau loài người. Qua loài hoa, tôi nói chuyện với Thượng đế…
Janus nhìn quanh ngôi nhà kính lớn mà họ đang đứng ở bên trong. Những cây cỏ và các loài hoa lạ làm khu nhà ngập trong những sắc màu rực rỡ của cầu vồng. Hương hoa pha quyện vào nhau, thơm ngát.
- Tất cả những gì trong khu nhà nầy đếu sống động. - Giáo sư Rachman nói. - Những cây cỏ nầy có thể cảm thấy yêu, ghét, đau đớn và kích động… giống như những động vật. Ngài Jagadis Chandra Bose đã chứng minh rằng chúng phản ứng với một giọng nói.
- Làm sao người ta có thể chứng minh điều đó? - Janus hỏi.
- Tôi sẽ sẵn sàng chứng minh cho ông thấy. - Racham bước đến bên chiếc bàn chất đầy cây. Bên cạnh là một chiếc máy đo. Rachman nhấc một đầu dây và cặp nó vào một cái cây. Kim trên đồng hồ của máy ở vị trí không làm việc.
- Trông nầy, - Ông ta nói, rồi ghé lại gần cái cây hơn và thì thầm. - Ta nghĩ rằng mi rất đẹp. Mi đẹp hơn tất cả những cái cây khác ở đây…
Janus thấy chiếc kim hơi dịch chuyển.
Đột nhiên, giáo sưa Rachman quát lên với cái cây:
- Mi thật là xấu. Mi sắp phải chết. Mi có nghe ta nói không? Mi sắp phải chết.
Chiếc kim bắt đầu rung lên, rồi giật bắn lên trên.
- Lạy Chúa, - Janus nói. - Tôi không thể nào tin được. Điều mà ông nhìn thấy, - Rachman nói, - tương tự như một con người bị quát mắng. Các tạp chí quốc gia đều đã đăng những bài viết về các thí nghiệm nầy.
Một trong những thí nghiệm hấp dẫn nhất là một thí nghiệm về khả năng nhìn, được tiến hành với sáu sinh viên. Một trong số họ, những người kia không biết, được chọn đi vào một căn phòng có hai cái cây, một cây được nối với máy đo. Cậu ta phá nát hoàn toàn cái cây kia. Sau đó, từng người sinh viên một được yêu cầu đi vào trong phòng, bước ngang qua cái cây.
Khi những sinh viên vô tội đi vào, máy đo không ghi lại được gì cả Nhưng đúng lúc kẻ có tội xuất hiện thì kim trên máy đo vọt lên.
- Thật không thể tin được.
- Nhưng đó là sự thật. Chúng ta cũng đã biết rằng cây cối có phản ứng với các loại âm nhạc khác nhau.
- Các loại khác nhau?
- Phải. Họ đã làm một thí nghiệm tại Đại học Temple Buell ở Denver với những cây hoa khoẻ mạnh được đặt trong các lồng kính riêng biệt. Nhạc rock gay gắt được truyền dẫn vào một lồng, nhạc xita miền Đông Ấn Độ được truyền dẫn vào một lồng, và lồng thứ ba không có âm nhạc gì hết. Một kíp ghi hình của hãng CBS đã ghi lại thí nghiệm nầy với kỹ thuật chụp hình cách quãng. Vào cuối tuần thứ hai, những cây hoa được nghe nhạc rock đã chết, nhóm không có nhạc thì phát triển bình thường và nhóm nghe nhạc xita thì nở rộ với hoa và cành vươn cả về phía phát ra tiếng nhạc. Walter Cronkite đã cho chiếu bộ phim trên chương trình của ông ta. Nếu như ông muốn kiểm tra, bộ phim đó được chiếu ngày 26 tháng 10 năm 1970.
- Ông đang nói là cây cối cũng có một sự thông minh nào đó phải không?
- Chúng thở, ăn và sinh sản. Chúng có thể cảm thấy đau và chúng có thể có các biện pháp tự vệ chống lại những kẻ thù của mình. Thí dụ, một số loài cây tiết ra một thứ độc tố để đầu độc vùng đất xung quanh nó và nhờ vậy, ngăn chặn những kẻ cạnh tranh. Một số loài khác thì tiết ra những chất kiềm để làm cho chúng trở nên không thể chấp nhận được đối với các loại côn trùng. Chúng tôi đã chứng minh được rằng cây cỏ giao tiếp với nhau được ở mức nào đó.
- Có. Tôi có nghe chuyện đó. - Janus nói.
- Một vài loài cây là những loài ăn thịt. Chẳng hạn như cây bắt ruồi. Một số loài phong lan có vẻ ngoài và mùi giống như những con ong cái để bắt những con ong đực. Những giống khác thì lại giống những con ong bắp cày cái để lôi cuốn những con ong bắp cày đực tìm đến thụ phấn cho chúng. Một loài phong lan khác lại có mùi như mùi thịt ôi để dụ dỗ những con nhặng quanh đó đến với chúng.
Janus lắng nghe từng lời.
- Có một loài hoa có một cánh phía trên có khớp nối và khi một con ong đậu vào thì cánh hoa đậy lại. Lối thoát duy nhất là một lối nhỏ xíu dẫn ra phía sau và trong khi con ong loay hoay để thoát ra thì nó đã phải mang theo một chút phấn hoa. Có tới năm nghìn loài cây hoa mọc ở vùng Đông Bắc và mỗi loài lại có những đặc tính riêng. Việc cây cỏ có khả năng suy nghĩ đã được chứng tỏ nhiều lần.
Janus đang ngẫm nghĩ: Và sinh vật mất tích kia đang lấn khuất đâu đó.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 11

Ngày thứ ba, Bern, Thuỵ Sĩ
Thứ tư ngày 17 tháng Mười
Bern là một trong những thành phố mà Robert yêu thích nhất. Nó duyên dáng, đầy những tượng đài thật đáng yêu và những ngôi nhà cổ bằng đá tuyệt đẹp được xây dựng từ hồi thế kỷ 18. Nó là thủ đô của Thuỵ Sĩ, là một trong những thành phố phồn vinh nhất của nước nầy, và Robert cứ băn khoăn không biết những chiếc xe điện màu xanh lá cây có liên quan gì tới màu sắc của đồng tiền không. Anh thấy rằng người dân ở Bern dễ chịu hơn những người dân ở các vùng khác của Thuỵ Sĩ. Họ đi lại khoan thai hơn, nói năng chậm rãi hơn và nhìn chung là điềm đạm hơn. Trước đây anh đã có mấy lần làm việc ở Bern với Cục An ninh Thuỵ Sĩ, trong trụ sở Waisenhauspoatz của họ. Anh có bạn bè có thể giúp ích ở đó, nhưng những chl thị đối với anh là rõ ràng.
Khó hiểu, nhưng rõ ràng. Phải mất mười lăm phút gọi điện thoại Robert mới tìm ra được cái gara đã chữa xe của tay thợ ảnh kia. Đó là một xưởng nhỏ ở Fribourgstrasse, và người thợ máy, Fritz Mandel, cũng đồng thời là ông chủ. Mandel có lẽ vào cuối tuổi bốn mươi, với một khuôn mặt dễ sợ, đầy mụn trứng cá, một thân hình gầy gò và một cái bụng phệ ra vì bia. Khi Robert đến, ông ta đang làm việc trong cái kho chứa dầu mỡ.
- Xin chào, - Robert lên tiếng.
Mandel ngẩng lên.
- Xin chào. Tôi có thể làm gì cho ông?
- Tôi quan tâm tới một chiếc xe mà ông đã mang về đây hôm chủ nhật.
- Đợi một chút, để tôi làm xong cái nầy đã.
Mười phút sau, Mandel chui ra và chùi hai bàn tay đầy dầu mỡ vào một cái giẻ bẩn thỉu.
- Chính ông là người đã gọi điện sáng nay? Có chuyện phàn nàn về việc ấy à? - Mandel hỏi. - Tôi không chịu trách nhiệm về…
- Không, - Robert đảm bảo với ông ta. - Không có gì cả. Tôi đang tiến hành một điều tra và tôi quan tâm tới người lái chiếc xe đó.
- Mời vào văn phòng!
Hai người đi vào một văn phòng nhỏ và Mandel mở một tủ đựng giấy tờ.
- Ông nói chủ nhật trước à?
- Đúng vậy.
Mandel lấy ra một tấm các.
- À! Cái tay đã chụp tấm hình trước cái vật thể bay lạ đó chứ gì.
Hai bàn tay Robert chợt ướt đẫm mồ hôi.
- Ông đã nhìn thấy cái vật thể bay lạ đó à?
- Phải. Tôi gần như chết lặng.
- Ông có thể mô tả lại không?
Mandel nhún vai.
- Nó - nó dường như đang hoạt động.
- Ông nói gì cơ?
- Ý tôi nói, có một thứ ánh sáng quanh nó. Nó liên tục thay đổi màu sắc. Nó có màu xanh da trời… rồi xanh lục trong không biết. Rất khó mô tả. Và có những sinh vật nhỏ bé trong đó. Không phải là con người, nhưng… - Ông ta ngừng bặt.
- Bao nhiêu?
- Hai.
- Họ còn sống không?
- Tôi thấy họ như đã chết. - Ông ta nhíu mầy. - Tôi sung sướng là ông đã tin tôi. Tôi đã nói với bạn bè, song họ đều cười nhạo tôi. Ngay cả vợ tôi cũng nghĩ là tôi đã say. Nhưng mà tôi biết tôi đã nhìn thấy gì chứ.
- Về cái xe mà ông đã kéo đi… - Robert nói.
- À. Chiếc Renault. Nó bị chảy dầu và những đệm lót bị cháy. Việc kéo nó đi phải trả một trăm hai mươi lăm francs. Chủ nhật, tôi tính gấp đôi.
- Người lái xe trả bằng séc hay thẻ tín dụng hả?
- Tôi không nhận séc cũng như thẻ tín dụng. Anh ta trả bằng tiền mặt.
- Francs Thuỵ Sĩ chứ?
- Đồng bảng.
- Ông có chắc không?
- Chắc. Tôi nhớ là đã phải kiểm tra tỉ giá hối đoái mà.
- Ông Mandel, ông có tình cờ biết gì về cái biển số của chiếc xe đó không?
- Tất nhiên. - Mandel liếc nhìn tấm các. - Đó là một chiếc xe đi thuê. Avis. Anh ta thuê nó ở Geneva.
- Ông có thể cho tôi cái số xe đó không?
- Được có gì đâu? Ông ta viết những con số lên một mẩu giấy và trao nó cho Robert. - Mà có chuyện gì vậy? Cái vật thể bay lạ kia à?
- Không, - Robert nói với một giọng chân thành nhất. Anh móc ví và lấy ra một tấm thẻ chứng minh. - Tôi ở IAC, Câu lạc bộ ô tô Quốc tế. Hãng của tôi đang làm một nghiên cứu điều tra về những xe kéo.
- Ồ.
***
Robert rời khỏi cái gara, trong lòng bàng hoàng.
Có vẻ như chúng ta có trong tay một vật thể bay lạ khốn kiếp và hai sinh vật lạ chết trên đó. Vậy thì tại sao tướng Hilliard nói dối anh khi mà ông ta biết Robert sẽ phát hiện rằng đó là một chiếc đĩa bay bị đâm xuống đất?
Chỉ có thể có một lời giải thích, và đột nhiên Robert cảm thấy rùng mình ớn lạnh.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 12

Chiếc phi thuyền mẹ khổng lộ lặng lẽ treo lơ lửng trong khoảng không gian vũ trụ tối sẫm, dường như bất động, đang di chuyển với tốc độ hai mươi hai nghìn dặm một giờ, đồng bộ một cách chính xác với quỹ đạo của trái đất. Sáu sinh vật lạ ở trên phi thuyền đang chăm chú lên chiếc màn hình quang học có thị trường ba chiều chiếm cả một bức tường của phi thuyền.
Trên màn hình, trong khi hành tinh trái đất quay, họ theo dõi những hình ảnh tự động hiện lên về những gì ở phía dưới đồng thời một máy quang phổ điện tử phân tích về thành phần hoá học của những hình ảnh vừa xuất hiện. Bầu khí quyển của những vùng đất mà họ đang bay qua bị ô nhiễm nặng nề. Những nhà máy lớn làm bẩn không khí với những khí thải độc hại, dầy và đen đặc trong khi những chất thải không thể bị phân huỷ nhờ vi khuẩn được đổ đầy những bãi thải và xuống biển.
Những sinh vật lạ nầy chìm xuống những đại dương, đã có thời hoang sơ và trong xanh, giờ đây đen ngòm vì dầu và nâu vàng vì những chất cặn bã. Mầu hồng rực của vùng Vách Chắn lớn đang ngả sang trắng nhợt và hàng tỉ con cá đang chết dần chết mòn. Nơi cây cối bị chặt hạ ở vùng rừng nhiệt đới Amazon giờ đây là một khoảng trống lớn, khô cằn. Những máy móc trên phi thuyền cho thấy nhiệt độ ở trái đất đã tăng lên kể từ cuộc thám hiểm trước của họ cách đây ba năm. Họ có thể nhìn thấy những cuộc chiến tranh đang được tiến hành trên trái đất phía dưới, phun thêm những chất độc mới vào bầu khí quyển.
Những sinh vật lạ nầy trao đổi với nhau bằng thần giao cách cảm.
- Con người trên trái đất đã không có gì thay đổi.
Thật đáng buồn. Họ đã không học được gì cả.
- Chúng ta sẽ dạy họ.
- Anh đã thứ liên lạc với những thành viên kia chưa?
- Rồi. Có chuyện trục trặc. Không có trả lời.
- Anh phải tiếp tục cố xem.
- Chúng ta phải tìm thấy con tàu.
Trên trái đất, phía dưới quỹ đạo của chiếc phi thuyền không gian kia hàng cây số Robert đã đặt một cú điện thoại cho tướng Hilliard từ một máy điện thoại an toàn. Dường như ông ta có mặt ở đầu dây ngay lập tức.
- Xin chào ông sĩ quan ông có gì để báo cáo không hả?
Có. Tôi muốn nói rằng ông là một thằng chó đẻ dối trá.
- Về quả bóng thám không đó, thưa ngài… hoá ra đó có thể là một vật thể bay lạ.
Anh chờ đợi.
- Phải, tôi biết. Có những lý do an ninh quan trọng mà tôi đã không thể nào nói hết với anh trước đó.
Cái trò hai mặt quan cách. Một thoáng im lặng.
Tướng Hilliard nói:
- Ông sĩ quan, tôi sắp nói với ông một điều tuyệt mật. Cách đây ba năm, chính phủ chúng ta đã phải đối mặt với những sinh vật lạ. Họ đã hạ cánh xuống một trong những căn cứ thuộc khối NATO của chúng ta. Chúng ta đã giao tiếp được với họ.
- Họ… họ đã nói gì ạ? - Robert cảm thấy tim mình đập rộn lên.
- Họ nói rằng có ý định tiêu diệt chúng ta.
- Tiêu diệt chúng ta ư? - Anh cảm thấy rùng mình.
- Đúng vậy. Họ nói sẽ trở lại để chiếm lấy hành tinh nầy và biến chúng ta thành nô lệ, và rằng chúng ta không có cách gì để ngăn cản họ được. Chưa có. Nhưng chúng ta đang tìm. Chính bởi vậy, điều khẩn cấp là chúng ta phải tránh nỗi kinh hoàng cho dân chúng và dành thêm thời gian. Tôi nghĩ là bây giờ thì ông có thể hiểu tầm quan trọng của việc không để các nhân chứng bàn luận về những gì họ đã nhìn thấy. Nếu chuyện về họ được tiết lộ ra thì đó sẽ là một thảm hoạ đối với thế giới.
- Ngài không nghĩ rằng tốt hơn là chuẩn bị cho dân chúng và…
- Ông sĩ quan, vào năm 1938, một bác sĩ trẻ tên là Orson Welles làm một vở kịch truyền thanh với cái tên "Chiến tranh giữa các hành tinh" về chuyện những sinh vật lạ xâm lăng trái đất nầy. Chỉ trong vòng ít phút, đã có một sự hoảng sợ trong các thành phố trên khắp nước Mỹ. Một bộ phận dân chúng quá khích đã tìm cách chạy trốn khỏi những kẻ xâm lăng tưởng tượng kia. Các đường liên lạc điện thoại bị nhiễu loạn, các xa lộ bị tắc nghẽn. Nhiều người bị chết. Tất cả trở nên rối loạn. Không, chúng ta phải tìm ra cách tiếp đón các sinh vật lạ kia trước khi công bố mọi chuyện. Chúng tôi muốn ông tìm ra những nhân chứng kia là để bảo vệ cho chính họ và để chúng ta có thể kiểm soát được tình hình.
- Vâng. Tôi… tôi hiểu. - Robert thấy mình đang toát mồ hôi.
- Tốt. Tôi cho rằng ông đã nói chuyện với một trong số các nhân chứng?
- Tôi đã tìm được hai trong số họ.
- Tên?
- Hans Beckerman. - Ông ta là người lái xe của chiếc xe bus du lịch theo tuyến đó. Ông ta sống ở Kapel…
- Và người thứ hai?
- Fritz Mandel. Anh ta có một cái gara ở Bern. Anh ta chính là người thợ máy đã kéo chiếc xe của nhân chứng thứ ba về xưởng.
- Tên của nhân chứng đó?
- Tôi chưa có. Tôi đang tìm kiếm. Ngài có muốn tôi nói chuyện với họ về việc cần thiết phải im lặng về cái vật thể bay lạ nầy không?
- Không. Nhiệm vụ của ông đơn thuần là tìm ra các nhân chứng. Sau đó, chúng ta sẽ để các chính phủ của họ lo chuyện với từng người. Ông đã biết có bao nhiêu nhân chứng chưa?
- Rồi. Bẩy hành khách cùng người lái xe, người thợ máy và một người đi ô tô ngang qua.
Ông phải tìm ra tất cả bọn họ. Từng người trong số mười nhân chứng đã mục kích vụ tại nạn. Rõ chưa?
- Rõ, thưa ngài.
Robert gác ống nghe, đầu óc rối bời. Những vật thể bay lạ là chuyện có thật. Những sinh vật xa lạ kia là những kẻ thù. Tướng Hilliard đã trao cho anh nhiệm vụ nầy nhưng đã không nói với anh tất cả. Họ còn giấu anh điều gì nữa không nhỉ?
***
Hãng cho thuê xe hơi Avis đặt ở số 44 phố Lausanne ở trung tâm Geneva. Robert xồng xộc đi vào và tiến tới trước một phụ nữ đang ngồi sau bàn.
- Tôi có thể giúp ông chứ?
Robert ném mẩu giấy với số biển kiểm soát của chiếc xe Renault được viết trên đó.
- Tuần trước, hãng cô đã cho thuê chiếc xe nầy. - Tôi muốn biết tên cái người đã thuê nó. - Giọng anh đầy tức giận.
Cô nhân viên rúm người lại.
- Tôi xin lỗi, chúng tôi không được phép đưa ra các thông tin đó.
- Ồ, thế thì thật là quá tại hại, - Robert cáu kỉnh - bởi vì trong trường hợp đó, tôi sẽ phải kiện hãng của cô để đòi một khoản tiền lớn.
- Tôi không hiểu. Có chuyện gì vậy?
- Tôi sẽ nói cho cô nghe có chuyện gì, cô gái. Chủ nhật tuần trước chiếc xe nầy đã đâm vào tôi trên xa lộ và làm xe tôi hỏng nặng. Tôi đã ghi lại được số xe của hắn ta, nhưng hắn thì lái xe chạy mất trước khi tôi có thể giữ được hắn.
- Tôi hiểu rồi. - Cô nhân viên nhìn Robert trong giây lát. - Xin lỗi một chút. - Cô biến mất vào trong một căn phòng phía sau. Mấy phút sau cô quay lại, mang theo một hồ sơ. - Theo hồ sơ của chúng tôi, có một trục trặc với động cơ của chiếc xe nầy, nhưng không có báo cáo về bất kỳ một tai nạn nào.
- Ồ thì bây giờ tôi đang báo cáo đây thôi. Và tôi cho rằng hãng của cô phải chịu trách nhiệm về chuyện nầy. Các cô sẽ phải trả tiền sửa xe cho tôi. Đó là một chiếc xe Porsche mới tinh, và nó sẽ làm cho các cô mất một đống tiền…
- Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông, nhưng do không được báo về vụ tai nạn nên chúng tôi không thể chịu bất kỳ trách nhiệm gì.
- Nầy, - Robert nói bằng một giọng dịu hơn. - Tôi muốn thật công bằng. Tôi không muốn hãng của cô phải chịu trách nhiệm. Tất cả những gì tôi muốn là cái thằng cha kia phải trả tiền cho những hư hỏng mà hắn đã gây ra cho cái xe của tôi. Đó là cái trò gây chuyện rồi bỏ chạy. Thậm chí tôi có thể báo cảnh sát về chuyện nầy. Nếu cô cho tôi biết tên và địa chỉ hắn ta, tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với hắn và chúng tôi có thể giải quyết với nhau mà không mắc mớ gì đến hãng nầy. Như thế đã công bằng chưa nào?
Cô nhân viên ngẫm nghĩ.
- Được. Chúng tôi hẳn là muốn vậy hơn. - Cô nhìn xuống cặp hồ sơ trong tay và nói. - Tên của người thuê xe là Leslie Mothershed.
- Còn địa chỉ?
- 213 A đường Grove, Whitechapel, London, khu 3 Đông. - Cô ngước lên. - Ông chắc chắn là hãng chúng tôi không dính vào chuyện kiện tụng chứ hả?
- Tôi hứa với cô như vậy, - Robert cam đoan. - Đây là chuyện riêng giữa Leslie Mothershed và tôi.
Robert Bellamy có mặt trên chuyến bay đầu tiên đi London.
***
Ông ta ngồi một mình trong bóng tối, tập trung và thận trọng rà lại từng giai đoạn của bản kế hoạch đề tin chắc rằng không có một kẽ hở nào, không thể có trục trặc gì. Những ý nghĩ của ông ta bị gián đoạn bởi tiếng chuông điện thoại dịu dàng.
- Janus đây.
- Janus. Tướng Hilliard.
- Nói đi.
- Sĩ quan Bellamy đã phát hiện hai nhân chứng đầu tiên.
- Rất tốt. Lo việc đó ngay đi.
- Thưa ngài, vâng.
- Hiện giờ ông sĩ quan đang ở đâu?
- Trên đường đi London. Ông ta sẽ sớm xác định được người thứ ba.
- Tôi sẽ báo cho Uỷ ban về những kết quả của ông ta. Hãy tiếp tục báo cho tôi biết tình hình. Tình trạng của chiến dịch nầy vẫn là khẩn cấp.
- Thưa ngài, tôi hiểu. Tôi đề nghị…
Đường liên lạc bị cắt.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Giám đốc Bundesanwaltschaft.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
1. Hans Beckerman - Kapel.
2. Fritz Manael - Bern.
Hết.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 13

Vào lúc nửa đêm, trong một trang trại nhỏ cách Uctendort mười lăm dặm, gia đình Lagenfeld bị khuấy động bởi một chuỗi các hiện tượng lạ. Đứa con lớn thức giấc bởi một luồng ánh sáng màu vàng nhạt chiếu qua cửa sổ phòng ngủ. Khi cậu ta trở dậy để xem chuyện gì thì luồng ánh sáng biến mất.
Ở ngoài sân, Tozzi, con chó săn giống Đức, bắt đầu sủa vang giận dữ, đánh thức ông già Lagenfeld.
Ông chủ trại miễn cưỡng rời khỏi giường để nạt con vật thôi sủa, và khi vừa bước ra ngoài thì nghe tiếng bầy cừu hoảng hot trong chuồng, tìm cách thoát ra.
Khi đi qua cái máng ăn vốn đầy nước do trời mới mưa, ông thấy rằng cái máng khô khốc.
Và đúng lúc đó, tất cả đèn trong nhà vụt tắt. Khi ông chủ trại trở vào nhà và nhấc điện thoại để gọi bảo sở điện lực thì thấy đường dây bị cắt rồi.
Nếu như điện còn sáng thêm một vài giây thì ông chủ trại có thể đã trông thấy một phụ nữ đẹp một cách kỳ lạ từ khu sân trại của ông đi ra phía ngoài đồng.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 14

Cục Tình báo – Geneva
13 giờ 00.
Vị bộ trưởng ngồi trong cán phòng nằm lọt ở trung tâm của toà nhà trụ sở Cục Tình báo Thuỵ Sĩ, nhìn viên phó giám đốc đang đọc nốt bức điện.
Rồi ông ta thu nó về, bỏ vào trong cái cặp hồ sơ có đánh dấu Tuyệt mật, cất cái cặp vào trong ngàn kéo bàn và khoá lại.
- Hans Beckerman và Fritz Mandel.
- Phải.
Không có vấn đề gì; thưa ngài bộ trưởng. Chuyện nầy sẽ được lo liệu chu tất.
- Tốt.
- Sao ạ?
- Thủ tiêu. Ngay lập tức.
***
Sáng ngày hôm sau, trên đường đi làm, Hans Beckerman lại bị cái bụng của ông ta hành hạ. Lẽ ra mình phải bắt cái thằng cha phóng viên kia xì tiền cho cái vật mà mình đã nhặt được. Tất cả những tờ tạp chí nầy đều lắm tiền cả. Có thể mình đã kiếm được vài trăm đồng mác. Và như vậy mình đã có thể đến một bác sĩ tử tế để chữa cái bụng của mình.
Đang lái xe chạy ngang hồ Turler thì phía trước, bên lề xa lộ, ông ta thấy một người phụ nữ vẫy xin đi nhờ. Beckerman cho xe chạy chậm lại để có thể nhìn người phụ nữ rõ hơn. Cô ta trẻ trung và trông thật hấp dẫn. Ông ta dừng xe lại bên lề đường. Cô gái tiến lại bên xe.
- Xin chào, - Beckerman nói - Tôi có thể giúp cô chứ?
Ở gần, trông cô ta còn xinh đẹp hơn.
- Cảm ơn. - Cô ta có giọng Thuỵ Sĩ. - Em cãi cọ với người bạn trai của em, và anh ta đã ném em xuống đây, giữa nơi đồng không mông quạnh nầy.
- Chà, chà. Thật là tồi tệ.
- Ông không phiền lòng cho em đi nhờ xe tới Zurich chứ?
- Có gì đâu. Vào đi, vào đi!
Cô gái mở cửa và vào ngồi cạnh Hans.
- Ông thật tốt bụng, - Cô ta nói. - Tên em là Karen.
- Hans. - Ông ta cho xe chuyển bánh.
- Em không biết em sẽ xoay sở thế nào nếu không có ông, Hans ạ.
- Ồ tôi chắc là sẽ không ai không dừng xe một cô gái xinh đẹp như cô.
Cô xích lại gần ông ta hơn.
Nhưng em chắc rằng người đó sẽ không đẹp trai như ông đâu.
- Thế hả? - Ông ta đưa mắt nhìn sang.
- Em nghĩ là ông thật đẹp trai.
- Cô nên nói như vậy với vợ tôi. - Ông ta mỉm cười.
- Ồ, ông có vợ à. - Cô gái tỏ vẻ thất vọng. - Sao tất cả những người đàn ông tuyệt vời thì đều có vợ rồi nhỉ? Mà trông ông cũng thông minh nữa.
Ông ta ngồi thẳng người thêm chút nữa.
- Nói thật với ông là em rất lấy làm tiếc vì đã dính dáng với cái người bạn trai kia của em. - Cô ta cọ quậy người trên ghế và chiếc váy ngắn hếch lên tới ngang đùi. Hans cố không đưa mắt nhìn. - Em thich những người đàn ông đứng tuổi, chín chắn, Hans ạ. Em thấy họ gợi tình hơn so với những người trẻ tuổi. Cô ta cọ người vào ông. - Hans, ông có thích chuyện tình dục không?
Ông ta hắng giọng.
- Tôi à? Ồ cô biết đấy tôi là một thằng đàn ông mà…
- Em có thể thây điều đó, - Cô ta đáp và vuốt ve đùi Beckerman. - Em có thể nói với ông thế nầy không nhỉ? Rằng cái cuộc cãi vã với người bạn trai đã làm cho em hứng tình đấy. Ông có muốn làm tình với em không?
Hans đã không thể nào tin được ở vận may của mình. Cô ta thật xinh đẹp và từ những gì ông ta có thề nhìn thấy thì hắn cô ta phải có một tấm thân rất quyến rũ. Ông ta nuốt nước bọt.
- Tôi muốn, nhưng mà tôi đang trên đường đi làm và…
- Sẽ chỉ mất it phút thôi mà. - Cô ta mỉm cười. - Phía trước mặt có một con đường nhánh dẫn vào rừng. Sao chúng ta lại không dừng lại… ở đó nhỉ?
Ông ta cảm thấy bị kích thích. Mẹ kiếp. Đến lúc mà mình nói chuyện với đám đàn ông ở sở chuyện nầy. Họ sẽ không bao giờ tin mất.
- Được thôi. Sao lại không nhỉ? - Hans cho xe rời khỏi xa lộ và chạy theo con đường nhỏ bụi bặm dẫn vào một cánh rừng mà ở đó những chiếc xe chạy ngang không thể nhìn thấy họ.
Cô ả lần tay người lên đùi ông ta:
- Lạy Chúa, ông có cặp chân thật khoẻ mạnh.
- Hồi trẻ, tôi là một vận động viên điền kinh mà, - Beckerman khoác lác.
- Em cởi quần ông ra nhé. - Cô ta cởi chiếc thắt lưng và rồi giúp Hans tụt quần xuống. Ông ta đã cương cứng.
- A, thật là to. - Cô ta bắt đầu ve vuốt nó.
- Hãy ngậm nó vào miệng. - Ông ta rên rỉ.
- Ông thích được hôn ở chỗ đó phải không?
- Phải.
Vợ ông ta không bao giờ làm như vậy cả.
- Vâng. Ông cứ thoải mái.
Beckerman thở mạnh và nhắm mắt lại. Hai bàn tay mềm mại của cô ta đang vuốt ve cái vật giống đực của ông ta. Hans cảm thấy như có một mũi kim châm vào đùi và mở choàng mắt ra. "Cái gì…?"
Toàn thân ông ta cứng đờ, mắt trợn lên. Cổ ông ta tắc nghẹn và không thể nào thở được. Người phụ nữ nhìn ông ta sụp xuống trên tay lái. Cô ta ra khỏi xe và đẩy cái xác chết sang ghế bên, rồi ngồi vào sau tay lái, cho xe chạy trở lại xa lộ. Tới rìa một đoạn đường vắng bóng xe cộ, cô ta mở cửa xe, giậm ga và khi chiếc xe bắt đầu trườn về phía trước thì lao ra ngoài, rồi đứng nhìn chiếc xe lộn xuống bờ dốc dựng đứng. Năm phút sau, một chiếc xe hơi sang trọng màu đen dừng lại bên cạnh cô ta.
- Có gì trục trặc không.
- Không.
***
Fritz Mandel đang ở trong văn phòng, sắp đóng cửa gara thì hai người đàn ông bước vào.
- Xin lỗi, - anh ta nói, - tôi đang chuẩn bị đóng cửa rồi. Tôi không thể…
Một trong hai người kia cắt ngang.
- Xe chúng tôi chết trên xa lộ. Chúng tôi muốn kéo nó đi.
- Vợ con tôi đang đợi. Chúng tôi có việc tối nay.
- Tôi có thể cho các ông tên một…
- Chúng tôi sẵn sàng trả hai trăm đôla. Chúng tôi đang vội.
- Hai trăm đôla?
- Đúng thế. Và chiếc xe của chúng tôi cũng bị hỏng nặng. Chúng tôi muốn anh sửa chữa nó. Điều đó có thể là chúng tôi sẽ phải trả thêm hai hoặc ba trăm đôla nữa.
- Thé hả? - Mandel trở nên quan tâm hơn.
- Đó là một chiếc Rolls, - một trong hai người đàn ông kia nói. - Hãy cho chúng tôi xem ông có những thiết bị gì ở đây mới được. - Họ, bước vào trong khu xưởng và đứng bên kho dầu mỡ. - Trang thiết bị tốt đấy.
- Thưa ông, vâng! - Mandel hãnh diện nói. - Toàn thứ tốt nhất.
Người lạ mặt móc ví ra.
- Đây. Tôi có thể trả ông trước một chút. - Anh ta lấy ra mấy tờ giấy bạc và trao nó cho Mandel. Khỉ anh ta đưa tay ra, chiếc ví tuột khỏi tay và rơi vào trong thùng mỡ.
- Chết rồi. - Đừng lo. - Mandel nói. - Tôi sẽ lấy lên.
- Anh ta nhoài vào trong thùng. Đúng lúc đó, một trong hai người đàn ông kia bước lại bên cái nút bấm dùng để điều khiển chiếc máy nâng thuỷ lực và ấn nút. Chiếc bàn nâng bắt đầu hạ xuống.
- Cẩn thận. Ông đang làm gì đấy? - Mandel nhìn lên.
Anh ta định trèo lên. Khi những ngón tay anh ta vừa bám lên thành, người đàn ông thứ hai dùng chân đạp nghiến lên và Mandel kêu lên đau đớn, rơi xuống.
Chiếc bàn nâng thuỷ lực nặng trịch vẫn lạnh lùng hạ xuống phía trên đầu anh ta.
- Hãy cho tôi ra. - Anh ta kêu gào. - Cứu tôi với!
Chiếc bàn nâng đã chạm vào vai và bắt đầu ép anh ta xuống dưới sàn. Vài phút sau, khi những tiếng la thét đã chấm dứt, một trong hai ngựời đàn ông kia bấm nút nâng chiếc bàn nâng lên. Người đồng hành của anh ta cúi xuống nhặt lấy cái ví, thận trọng không để máu giây vào quần áo. Hai người đàn ông quay ra và cho xe chạy biến vào trong màn đêm.
Điện khẩn.
Tối mật.
Cục Tình báo Thuỵ Sĩ gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
1. Hans Beckerman đã bị thủ tiêu.
2. Fritz Manael đã bị thủ tiêu.
Hết.
Ottawa, Canada.
24 giờ 00.
Janus đang phát biểu trước nhóm mười hai thành viên.
- Đang có những tiến bộ đáng hài lòng. Hai trong số các nhân chứng đã được bịt miệng. Sĩ quan Bellamy đaag bám theo người thứ ba.
- Đã có bước đột phá nầy trong Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) chưa? - Người Italia. Dữ dội. Không kiên nhẫn.
- Chưa, nhưng chúng tôi tin rằng kỹ thuật Chiến tranh giữa các hành tinh sẽ được hoàn thiện và sớm phát huy tác dụng.
Chúng ta phải làm mọi việc có thể được để đẩy nhanh nó. Nếu có chuyện tiền bạc thì… - Người Arập. Bí ẩn. Dè dặt.
- Không. Chỉ còn phải thử nghiệm thêm mà thôi.
- Cuộc thử sắp tới sẽ diễn ra khi nào? Người Autralia. Nhiệt tình. Thông minh.
Một tuần nữa. Chúng ta sẽ gặp lại ở đây sau 48 giờ.
 

tymkp1225

Quy ẩn gian hồ
Joined
Mar 23, 2011
Messages
1,182
Points
83
Chương 15

Ngày thứ tư - London.
Thứ năm, ngày 18 tháng Mười.
Leslie Mothershed có thần tượng là Robin Leach. Là một người ham mê chương trình "Phong cách của những người giàu có và nổi tiếng", Mothershed chăm chú theo dõi cách đi đứng, ăn mặc và nói năng của những vị khách của Robin Leach, bởi vì anh ta tin rằng một ngày nào đó, mình cũng sẽ xuất hiện trên chương trình nầy. Từ khi còn là một cậu bé, anh ta đã cảm thấy rằng số mệnh của mình là phải trở thành một nhân vật nào đó, giàu và nổi tiếng.
- Con là người rất đặc biệt đấy, - mẹ anh ta vẫn thường nói. - Con của mẹ rồi đây sẽ nổi tiếng khắp thế giới.
Cậu bé con thường đi ngủ với lời nói đó vang vang trong tai cho đến khi cậu ta thực sự tin là như thế.
Khi lớn lên, Mothelshed biết rằng mình có những khó khăn: Cậu ta không hề biết rõ mình sẽ trở nên nổi tiếng và giàu có bằng cách nào. Một dạo, Mothershed ám ảnh với ý nghĩ sẽ trở thành một ngôi sao màn bạc, thế nhưng cậu ta lại có tính nhút nhát khác thường. Cũng đã thoáng thèm muốn trở thành một ngôi sao bóng đá, nhưng cậu ta lại không phải là một vận động viên. Rồi lại nghĩ tới việc trở thành một khoa học gia nổi tiếng, hay một luật gia vĩ đại, có trong tay những ngân khoản khổng lồ. Thật không may, học lực của cậu ta vào loại xoàng và rồi cậu ta rời ghế nhà trường mà cũng không gần hơn được chút nào với ước vọng. Đơn giản là cuộc sống nầy không công bằng. Về mặt thể lực, trông cậu thật thiếu cảm tình, gầy, với nước da xanh nhợt, ốm yếu và cậu thấp choằn, chỉ có một mét sáu lẻ một chút. Mothershed luôn nhấn mạnh tới cái chỗ lẻ ấy. Cậu tự an ủi mình với một thực tế là những người nổi tiếng đều có khổ người thấp: Napoléon, Dudley Moore, Dustin Hoffman, Peter Falk…
Nghề duy nhất thực sự làm cho Leslie Mothershed thấy thích thú là chụp ảnh. Song nó thật là đơn giản. Ai cũng có thể làm được. Người ta chỉ cần ấn cái nút.
Mẹ cậu đã mua cho cậu một cái máy ảnh nhân sinh nhật lần thứ sáu của cậu và đã không tiếc lời ngợi ca những tấm ảnh mà cậu chụp được. Khi lên mười, Mothershed đã tin rằng cậu là một nhà nhiếp ảnh sáng giá. Cậu tự nhủ rằng mình hoàn toàn có tài như Ansel Adams, Richard Avedon, hay Margaret Bourke White. Với một khoản cho vay của bà mẹ, Leshe Mothershed đã mở một hiệu ánh ngay trong cái căn hộ ở Whitechpel của mình.
- Hãy bắt đầu bằng việc nhỏ, - bà mẹ nói, - nhưng nghĩ lớn. Và đó chính là điều Leslie đã làm. Anh ta bắt đầu rất nhỏ và nghĩ thì rất lớn, nhưng thật không may là anh ta không hề có tài năng nhiếp ảnh. Anh ta chụp những cuộc diễu hành, những con vật, những bông hoa và tin tưởng gửi chúng cho tất cả các tờ báo và tạp chí, và chúng luôn luôn bị gửi trả. Mothershed tự an ủi mình rằng tất cả những thiên tài đều đã bị phản bác trước khi tài năng của họ được công nhận. Anh ta tự cho mình là một kẻ tử vì đạo trước chủ nghĩa vật chất tầm thường.
Và rồi, từ trên trời cơ hội lớn cho anh ta đã tới. Người anh em họ của bà mẹ anh ta, làm việc cho hãng xuất bản Anh Harper Collins, tiết lộ vớí Mothershed rằng họ đang chuẩn bị làm một cuốn sách nhỏ giới thiệu về Thuỵ Sĩ.
- Lislie, họ vẫn chưa chọn được người nhiếp ảnh vậy cháu nên sang Thuỵ Sĩ ngay đi và mang về vài tấm ảnh có tầm cỡ thì cuốn sách nầy có thể sẽ là của cháu.
Lislie Mothershed vội vã thu xếp hành trang và lên đường đi Thuỵ Sĩ. Anh ta biết, một cách thật sự, rằng đây chính là cơ hội mà anh ta đã tìm kiếm. Cuối cùng thì những kẻ ngu ngốc cũng sắp phải công nhận một tài năng. Anh ta thuê một chiếc xe ở Geneva và đi khắp nơi chụp hình những ngôi nhà gỗ kiểu Thuỵ Sĩ, những thác nước, và những đỉnh núi cao tuyết phủ. Anh ta chụp cảnh hoàng hôn, bình minh và cảnh những người nông dân đang làm việc trên những cánh đồng.
Và rồi, giữa những thứ đó, số mệnh đã can thiệp và thay đổi cuộc sống của anh ta. Trên đường đến Bern, động cơ xe của anh ta bị hỏng. Anh ta dừng xe lại bên lề đường, bực tức. Vì sao lại là mình? Anh ta ngồi đó, cáu kỉnh, tiếc cho thời gian bị mất và món tiền phải trả để kéo xe đi sửa. Mothershed rền rĩ, vì sao những chuyện nầy luôn xảy ra với mình nhỉ? Phía sau anh ta mười lăm kilômét là làng Thun. Mình sẽ gọi xe kéo ở đó, Mothershed nghĩ. Như vậy thì không đến nỗi quá đắt.
- Anh ta vẫy một chiếc xe chở dầu chạy ngang.
- Tôi cần một cái xe kéo, - Mothershed giải thích. - Anh có thể dừng lại một cái gara nào đó ở Thun và bảo họ đến đây hộ tôi được không?
Người lái chiếc xe bồn lắc đầu.
- Hôm nay là chủ nhật anh bạn ạ. Gara gần nhất có thể vẫn làm việc sẽ phải là Bern.
- Bern à? Từ đây đến đó phải năm chục kilômét.
- Tôi sẽ phải trả cả đống tiền mất.
Người lái xe bồn mỉm cười.
- Đúng thế. Ở đó họ sẽ tính giá làm ngày chủ nhật mà. - Và anh ta rồ ga chuẩn bị cho xe chạy.
- Gượm đã. - Nhà nhiếp ảnh khó khăn lắm mới thốt ra lời.
- Tôi sẽ trả tiền cho chiếc xe kéo từ Bern.
- Được Tôi sẽ bảo họ phái ai đó đến đây.
Lislie Mothershed ngồi buồn nản trong chiếc xe hỏng của mình. Tất cả những gì mình cần là thế nầy đây, anh ta cay đắng nghĩ. Anh ta đã chi quá nhiều tiền để mua phim và bây giờ lại sẽ phải trả tiền cho một thằng ăn cắp nào đó để kéo chiếc xe nầy đi. Phải mất gần hai tiếng đồng hồ dài đằng đẵng, chiếc xe kéo mới đến. Khi người thợ máy bắt đầu móc sợi dây cáp từ chiếc xe tải vào chiếc xe của anh ta thì từ phía bên kia con đường có một vầng sáng loá, kèm theo là một tiếng nổ lớn, và Mothershed ngẩng lên, thấy một vật thể sáng loá rơi từ trên trời xuống. Chiếc xe duy nhất khác trên xa lộ lúc bấy giờ là một chiếc bus du lịch, và nó dừng lại sau chiếc xe của Lislie. Hành khách trên chiếc xe bus vội vã chạy về phía xảy ra vụ tai nạn. Mothershed lưỡng lự, giằng xé giữa tính tò mò và việc muốn tiếp tục lên đường. Anh ta quay người và đi theo những hành khách của chiếc xe bus.
Khi đến nơi xảy ra sự cố, anh ta đứng đó chết lặng.
Lạy Chúa, anh ta nghĩ, đó không phải là sự thật. Anh ta nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa bay… Lislie Mothershed đã nghe chuyện về những vật thể lạ và đã đọc về chúng, nhưng chưa bao giờ anh ta tin rằng chúng có thật.
Anh ta há hốc mồm, kinh hãi trước cái cảnh tượng kỳ quáỉ. Vỏ chiếc đĩa bay đã bị tung ra, và anh ta có thể thấy hai cái xác ở trong đó, nhỏ thó, với những cái đầu to, mắt trũng, không có tai và gần như không có cằm. Họ có vẻ như đang mặc những bộ quần áo bằng kim loại màu bạc.
Nhóm du khách chung quanh anh ta đứng nhìn trong sự im lặng ghê sợ. Người đàn ông đứng cạnh anh ta ngất xỉu. Một người đàn ông khác quay đi và nôn mửa. Một tu sĩ có tuổi nắm chặt lấy chuỗi hạt và cứ lảm nhảm điều gì đó.
- Lạy Chúa, - ai đó nói. - Đó là một cái đĩa bay.
Và đối với Mothershed thì đó chính là lúc Chúa hiện hình. Một điều kỳ diệu đã rơi ngày vào trong lòng anh ta. Anh ta, Lislie Mothershed, đã có mặt tại chỗ, với máy ảnh, để ghi lại câu chuyện thế kỷ nầy.
Không một tờ báo hay tạp chí nào trên thế giới nầy lại bác tấm hình mà anh ta sắp chụp. Một cuốn sách nhỏ giới thiệu về Thuỵ Sĩ ư? Thiếu chút nữa thì anh ta cười váng lên với cái ý nghĩ đó. Anh ta sắp làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên. Tất cả các chương trình của Robin Leach đầu tiên. Anh ta sẽ bán những tấm hình của mình cho các tờ London Times, Sun, Mail, Mirror - Cho tất cả các báo cht tiếng Anh và cho cả các báo chí nước ngoài nữa - Le FigaroParis Match, Oggi Der, Tag, TimeUSA Today. Báo chí khắp nơi sẽ năn nỉ để có được những tấm ảnh của anh ta. Nhật Bản và Nam Phi, Nga và Trung Quốc và không biết nhưng đâu nữa. Mothershed thấy tim mình đập rộn lên vì quá hồi hộp. Mình sẽ không cho ké nào được độc quyền cả. Từng tờ báo sẽ phải trả tiền trực tiếp cho mình. Mình sẽ bắt đầu với giá một trăm nghìn bảng một tấm, có thể là hai trăm ngàn. Và mình sẽ bán đi bán lại. Anh ta bắt đầu sốt sắng nhẩm tính số tiền sắp sửa thu được.
Lislie Mothershed mải mê với tương lai may mắn của anh ta đến mức suýt quên cả việc chụp ảnh.
- Ôi lạy Chúa. Xin lỗi, - anh ta nói, không biết là với ai nữa, và chạy như bay trở lại xe để lấy bộ độ nghề chụp ảnh.
Người thợ máy đã nâng bổng một đầu chiếc xe hỏng lên và sẳn sàng kéo nó đi.
- Chuyện gì đang xảy ra ở đó thế? - Anh ta hỏi.
- Hãy lại đó mà xem. - Mothershed đáp.
Hai người chạy ngang qua đường về phía cánh rừng, và Mothershed chen qua đám du khách.
- Xin lỗi, xin lỗi.
- Anh ta điều chỉnh ống kính máy ảnh và bắt đầu chụp cái vật thể bay lạ kia với những hành khách kỳ dị của nó. Mỗi khi tiếng máy kêu tạch, Mothershed lại nghĩ, Một triệu bảng… một triệu bảng nữa… một triệu bảng nữa.
Vị tu sĩ bước qua chỗ anh ta và nói:
- Đó là gương mặt của quỷ Satăng.
Satăng, mẹ kiếp, Mothershed hào hứng nghĩ. Đó là gương mặt cửa tiền bạc. Đây sẽ là những bức ảnh đầu tiên chứng tỏ rằng thật sự có tồn tại những đĩa bay. Và rồi, đột nhiên, một ý nghĩa khủng khiếp nảy ra trong đầu anh ta. Nếu những tờ tạp chí chết tiệt kia cho rằng những tấm ảnh là giả thì sao? Đã có hàng đống những tâm ảnh giả về những vật thể bay lạ. Cơn hào hứng của anh ta biến mất. Nếu như họ không tin mình thì sao? Và đó là lúc Lislie Mothershed chợt có một ý nghĩ khác.
Có chín nhân chứng đang đứng xung quanh anh ta. Dù chỉ là vô tình, họ sẽ xác nhận tính chân thực cho phát hiện của anh ta.
Mothershed quay lại trước nhóm du khách.
- Thưa quý bà và quý ông, - anh ta nói to. - Nếu tất cả quý vị muốn có ảnh của mình được chụp ở đây, xin đứng thành hàng và tôi vui lòng được gửi cho mỗi vị một tấm, tặng không thôi.
Những tiếng kêu lên vui vẻ. Chỉ trong tích tắc, các du khách trên chiếc xe bus, trừ vị tu sĩ, đã đứng thành hàng bên cạnh xác của chiếc vật thể bay kia. Vị tu sĩ đầy vẻ ái ngại. Ông ta nói:
- Tôi không thể, đó là quỷ dữ.
Mothershed cần vị tu sĩ. Ông ta sẽ là nhân chứng có sức thuyết phục nhất trong tất cả.
- Đó chính là vấn đề, - Mothershed cố thuyết phục. - Cha không thấy sao? Đây chính là lời chứng của cha về sự tồn tại của quỷ dữ.
Và sau cùng thì vị tu sĩ đã bị thuyết phục.
- Đứng giãn ra một chút, - Mothershed yêu cầu, - để chúng ta còn có thể nhìn thấy cái đĩa bay chứ.
Các nhân chứng sửa lại chỗ đứng.
- Được rồi. Rất tốt. Tuyệt. Giữ nguyên thế nhé, nào.
- Anh ta chụp khoảng nửa tá ảnh nữa và lấy ra một cái bút chì và một mẩu giấy.
- Nếu như các vị ghi tên và địa chỉ lại, tôi sẽ lo để mỗi vị nhận được một tấm ảnh.
Anh ta không có ý định gửi tấm ảnh nào đi cả đề mỗi vị nhận được một tấm ảnh. Tất cả những gì anh ta muốn chỉ là những nhân chứng để chứng thực mà thôi. Hãy để mặc những tờ báo và tạp chí chết tiệt kia lo chuyện đó.
Và rồi, đột nhiên, anh ta nhận thấy một vài người trong nhóm du khách kia cũng có máy ảnh. Anh ta không thể để cho ai nữa ngoài anh ta có những bức ảnh nầy. Chỉ có những tấm ảnh đề "Do Lislie Mothersheđ chụp" mới được tồn tại mà thôi.
- Xin lỗi, - anh ta nói với tất cả. - Những ai trong số quý vị có máy ảnh, nếu các vị muốn tôi sẽ chụp giúp để các vị có vài tấm trong máy của chính các vị.
Những chiếc máy ảnh được nhanh chóng trao cho Lishe. Khi anh ta quỳ xuống để lấy khuôn hình cho lần chụp đầu, không ai để ý thấy rằng Mothershed bật mở buồng phim và cứ để nó hở như thế. Thế, một chút ánh sáng mặt trời tươi đẹp nầy sẽ giúp cho nhưng tấm ảnh biến mất. Thật tệ, các bạn của tôi, nhưng chỉ có những người chuyên nghiệp mới được phép chớp lấy các cơ hội lịch sử của bọ.
Mười phút sau, Mothershed đã có tất cả tên và địa chỉ của đám khách du lịch. Anh ta nhìn chiếc đĩa bay một lần cuối và phấn khởi nghĩ: Mẹ nói thật đúng, mình sẽ trở nên giàu có và nổi tiếng.
Anh ta không thể nào đợi tới lúc quay trở về London để rửa những tấm ảnh quý giá kia.
***
- Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế nhỉ?
Suốt đêm, các đồn cảnh sát ở khu vực Uctendort ngập trong những cú điện thoại.
- Có kẻ nào đó cứ lảng vảng xung quanh nhà tôi…
- Có những thứ ánh sáng lạ phía bên ngoài…
- Đàn gia súc của tôi đang phát điên lên. Hẳn phải có những con sói đâu đây…
- Có ai đó làm khô kiệt máng nước của nhà tôi…
Và cú điện thoại khó giải thích trong số đó:
- Nầy, sếp, ngài nên phái nhiều xe kéo ra trục xa lộ chính ngay đi thôi. Một cơn ác mộng. Tất cả giao thông đã ngừng trệ.
- Cái gì hả? Vì sao?
- Không ai biết cả. Tất cả các động cơ xe đều chết đột ngột.
Đó là một đêm mà họ sẽ không bao giờ quên.
 
Top Bottom