MinhThy
<marquee behavior="alternate" scrollamount="1"><fo
- Joined
- Nov 17, 2011
- Messages
- 3,907
- Points
- 113
Con trai đẹp nhờ nét, Con gái đẹp nhờ đường”
『男由輪廓而都,女由線條而美』(Nam do luân quách nhi đô, nữ do tuyến điều nhi mỹ)
Du đại phu đời Minh mạt là một vị quan rất thích nam sắc, ông từng bảo rằng: “Nói về sắc đẹp trong thiên hạ thì nữ không đuổi kịp nam. Ở các loài có lông vũ từ chim phượng hoàng, khổng tước cho đến con gà, con trĩ, màu sắc rực rỡ đều thuộc về con trống; sắc lông của loài chó, ngựa cũng đều như thế”(天下之色,皆男勝女。羽族自鳳凰、孔雀以及雞雉之屬,文弢r />??並屬属于雄,犬馬之毛澤亦然:Thiên hạ chi sắc, giai nam thắng nữ. Vũ tộc tự phụng hoàng, khổng tước cập kê trĩ chi thuộc, văn thái tính thuộc vu hùng, khuyển mã chi mao trạch diệc nhiên) [情史•情外類Tình sử: Tình ngoại loại]. Cách quan sát của mấy trăm năm trước này quả thật là rất độc đáo, người ta đã nhận định chung rằng: trong loài chim chóc của nhóm động vật thì quả thực con trống có ngoại hình rất đẹp, và ngược lại, con mái thì thấp bé và có màu sắc nhạt nhẽo, đen đúa. Các nhà nghiên cứu khi đi tìm về nguyên nhân này đã nhận định, đấy chính là kết quả của việc chọn lựa trong quan hệ tính dục. Con trống do muốn tranh giành con mái nên giữa chúng phải tiến hành một cuộc so sánh về ngoại hình, cuộc cạnh tranh này đã mặc định vẻ đẹp của con trống là vẻ đẹp của sự hào hoa và cường tráng.
Xét về nhân loại, ngay từ thời kỳ cổ đại, giữa hai giới tính của con người trong xã hội luôn có một khoảng cách rất lớn: phần lớn nam giới đều là người nắm giữ quyền lực và của cải, có một địa vị rất cao và có khả năng chi phối người phụ nữ. Kết quả là người phụ nữ nào muốn có được một cuộc sống an nhàn, vui sướng thì phải chăm chút đến dung nhan của mình (女為悅己者容:nữ vị duyệt kỷ giả dung), từ đó, phụ nữ trở thành đối tượng chủ yếu để người khác ngắm nhìn, đồng thời, vẻ đẹp của người phụ nữ cũng trở thành trọng tâm của cái đẹp trong thế giới loài người. Nhưng không hoàn toàn vì thế mà có thể nói rằng nam giới không đẹp bằng phụ nữ, chỉ là, cái đẹp của nam giới tương đối bị xem nhẹ một chút. Kinh Thi có câu thơ hình dung về một mỹ nam như sau: “Chao ôi phương phi sao, Chàng cao lớn làm sao. Chao ôi tươi tắn sao, Thanh cao dịu dàng sao” (猗 嗟昌兮,頎而長兮。猗嗟娈兮,清揚婉兮:Y giai xương hề, Kỳ nhi trường hề. Y giai loan hề, thanh dương uyển hề) [Kinh Thi, chương Y Giai]. Cổ từ cũng nói rằng: “Đá kết như ngọc quý, thân tùng như ngọc xanh. Vẻ tươi riêng một cõi, thiên hạ chẳng người tranh” (積石如玉,列松如翠。郎艷獨絕,世無其匹:Tích thạch như ngọc, liệt tùng như thuý. Lang diễm độc tuyệt, thế vô kỳ thất) [Nhạc phủ thi tập, quyển 47].
Nếu so sánh với các mỹ nữ, thì các mỹ nam được gới thiệu ở đây cũng sẽ là những người được lựa chọn, cân nhắc theo những tiêu chí như diện mạo, hình thể, sức hấp dẫn, tài nghệ, trí tuệ… Một điều cần nhắc đến ở đây là, cũng giống như thập đại mỹ nữ Trung Quốc cổ đại, thập đại mỹ nam Trung Quốc cổ đại cũng không hẳn phải là người đẹp nhất, mà thường là những nhân vật có liên quan và có những đóng góp nhất định đến nền chính trị, xã hội đương thời, được sách sử (bao gồm cả dã sử, huyền sử) hay tác phẩm văn học (văn học dân gian, văn học bác học) ghi chép lại. Tương đối phù hợp với những tiêu chí đó là mười mỹ nam sau đây:
1. Phan An (潘安)
Phan Nhạc (潘岳) - một tên khác của Phan An, là người Hà Nam sống vào thời Tây Tấn, tên chữ là An Nhân (安仁), biệt hiệu là Đàn Nô (檀奴). Đây là một kỳ nhân của lịch sử Trung Quốc cổ đại, sở hữu một tư dung đã tốt, tinh thần thêm đẹp (姿容既好,神情亦佳:tư dung ký hảo, tinh thần diệc giai), vì thế trong dân gian có câu: “mặt tựa Phan An” (貌比潘安:mạo tỷ Phan An). Thời trẻ, Phan Nhạc có lần cưỡi xe ra ngoài thành Lạc Dương chơi, lúc ấy có rất nhiều phụ nữ luống tuổi sau khi gặp đều bất giác quay đầu lại nhìn, thậm chí có người si mê đã chạy đuổi theo. Do vậy, Phan An sợ đến mức thường không dám ra ngoài cửa. Có nhiều cô gái đang tuổi hoa niên cảm thấy khó có cơ hội được gần gũi, bèn ném quả vào xe của chàng, cứ mỗi lần trở về thì xe của chàng cũng đầy những quả chín, vì vậy mà trong dân gian thường nói “ném quả đầy xe”. Sau này, biệt hiệu “Đàn Nô” (檀奴) hay “Đàn Lang” (檀郎) sử dụng trong văn học cũng đã trở thành từ ngữ dùng để gọi một chàng trai nào đó được xem là tuấn tú. Có một người có dung mạo cực kỳ xấu xí tên là Trương Mạnh Dương (張孟陽) cũng bắt chước dáng điệu Phan Nhạc và đi ra ngoài thành chơi, nhưng mỗi lần ra khỏi cửa thì các chị em đều nhổ nước bọt, ném đá vào xe của anh ta, thế là, xe của anh ta cũng chất đầy đá mà trở về. Đây quả thực là một phiên bản khác của câu chuyện Đông Thi hiệu tần (Đông Thi bắt chước dáng điệu nhăn mặt của Tây Thi)!
Không những là một người có diện mạo đẹp như gấm thêu, mà Phan Nhạc còn là một người viết ra những áng văn chương cũng đẹp như hoa như gấm: từ nhỏ đã lộ rõ tài năng văn chương thiên phú, được người trong làng gọi là kỳ đồng. Vào năm chàng 12 tuổi, một lần Tấn Võ Đế Tư Mã Viêm nhân lúc cao hứng đã ra lệnh cho mọi người viết văn thơ, kết quả là tác phẩm của Phan Nhạc là bài hay nhất. Các quan đại thần nhìn qua, tác giả của bài thơ ấy là một tên mặt trắng còn non nớt, bèn lấy làm ganh ghét, lập tức đuổi chàng ra khỏi triều đình. Sau mười năm nhàn nhã với thơ phú, Phan Nhạc cuối cùng cũng đã được thu dụng làm quan, giữ chức huyện thái lệnh huyện Hà Dương và cũng có chút công lao đối với việc triều chính. Lúc ấy, ở huyện Hà Dương có trồng rất nhiều cây đào nên người ta gọi chàng là “nhất huyện hoa”. Từ đó về sau, con đường quan lại của chàng luôn không được suôn sẻ mà có lúc thăng lúc giáng, mãi đến năm Nguyên Khang thứ sáu (296), chàng mới trở về Lạc Dương nhậm chức Kinh quan. Một chàng thiếu niên đầy tài năng và dung mạo tuyệt thế của ngày xưa giờ tóc đã hoa râm, đã nếm đủ mọi đắng cay gian khổ trên chốn quan trường, tai đã nghe qua và mắt đã thấy qua những người luôn a dua xu phụ kẻ khác.
Lúc này, quyền lực chính trường rơi vào tay của mụ hoàng hậu xấu xí Giả Nam Phong. Cháu bên ngoại của mụ là Giả Ích rất thích kết giao qua lại với các quan khách, cùng nhau tổ chức nên một hội văn nhân có tên là “Nhị thập tứ hữu” (hai mươi bốn người bạn), dùng chữ nghĩa để dấy lên cơn phiến động trong tập đoàn ngoại thích của Giả hậu. Trong khi đó, mụ ta muốn phế truất thái tử, nhưng Phan Nhạc lại là người bất hạnh khi rơi vào trong âm mưu này: Giả Nam Phong đã phái một quan nhân dưới trướng của mình chuốc cho thái tử uống say rồi bắt Phan Nhạc viết một bài văn tế thần, đồng thời bắt thái tử sao chép lại. Thái tử do uống say nên thần trí không được minh mẫn, đành viết bừa một lúc. Sau khi nhận bài văn của thái tử xong, Phan Nhạc lại sửa một vài nét chữ, biến nó thành một bài văn có ý phản nghịch, khiến thái tử phải bị phế truất, mẹ đẻ của thái tử bị bức tử. Tuy không phải là người lập ra kế hoạch phế truất thái tử, nhưng rõ ràng Phan Nhạc lại là người có vai trò làm khuấy động nên âm mưu này, do vậy, tuy gian kế đã thành công nhưng chàng cũng không được yên. Sau khi thái tử mất, Triệu vương Tư Mã Luân lấy cớ báo thù bèn dấy cơn binh biến và tấn công vào cung, dẹp bè đảng của Giả hậu. Trước đấy, Phan Nhạc đã từng đắc tội với người bạn của Triệu vương nên sau cuộc loạn Bát vương, Triệu vương Tư Mã Luân vừa đoạt được chính quyền đã lập tức ra lệnh bắt Phan Nhạc và phán định hình phạt tru di tam tộc.
Trong cơn loạn Bát vương, Phan Nhạc lại là người tham gia tích cực, vì thế mà chàng phải mang một tội danh lớn: giúp hổ làm ma. Nhưng không vì thế mà vấn đề công và tội của chàng làm mờ đi nét tài hoa trong văn phong, sự tinh tế trong miêu tả của chàng.
Trong cuộc sống, Phan Nhạc là một người rất tốt. Đính hôn từ năm hơn mười tuổi, đối với người vợ kết tóc xe tơ họ Dương, chàng rất mực chung tình. Dương thị mất năm Nguyên Khang thứ 8 (298) khiến Phan Nhạc đau buồn triền miên, viết nên những bài từ điếu vong chứa đầy tình cảm son sắt keo sơn, và đây cũng chính là những bài hay nổi tiếng trong mảng đề tài này. Nhưng đáng tiếc là do mộng công danh quá nặng, gấp gáp trên đường thăng tiến, lại không biết thoả mãn với những gì đã có nên cuối cùng chàng phải mang tội tử.
2. Lan Lăng vương (蘭陵王)
Lan Lăng Vương tên là Cao Trường Cung (高長恭), lại có tên là Cao Hiếu Quán (高孝瓘), là cháu của Cao Hoan (高歡) – một vị đại thừa tướng phong lưu anh hùng khởi nghiệp từ bàn tay trắng, một vị đại thần của Đông Nguỵ. Sau khi ông mất, trưởng tử của ông là Cao Trừng (高澄) tiếp tục lên làm quyền thần thời Đông Nguỵ. Cao Trừng rất sáng suốt trên mảng chính trị, nhưng vào năm 29 tuổi thì lại chết trong tay của bọn nô lệ, để lại sáu đứa con nheo nhóc; trong đó, người con thứ tư đã trở thành Lan Lăng vương được truyền danh ngàn đời nay.
Cao Trường Cung rất kiêu dũng thiện chiến. Tương truyền rằng, vì chàng có vẻ ngoài rất dịu dàng đẹp đẽ, không đủ làm cho kẻ địch khiếp sợ, nên mỗi lần ra trận đều phải đeo chiếc mặt nạ dữ tợn vào. Đời sau có một câu chuyện nổi tiếng kể lại rằng: một lần đi cứu viện Lạc Dương, chàng lãnh suất năm trăm kỵ sĩ, xông qua vòng vây của quân Chu, đột nhập vào thành Lạc Dương. Các binh lính trên thành không nhận ra là ai đã đến, cứ chần chừ vì hoài nghi đó là mưu kế của quân địch. Lan Lăng Vương bèn cởi bỏ khôi giáp (chú ý: đây là chiếc mũ trụ lớn che phần mặt mà không phải là mặt nạ; điển cố “Lang Lăng Vương đeo mặt nạ” có lẽ là do người đời sau thêm thắt vào) để cho binh lính nhìn thấy rõ diện mạo của mình, binh lính trên thành lòng bỗng rúng động vì trông thấy tôn dung, bèn có hơn trăm cung thủ bước đến nghênh đón. Thế là quân Chu nhanh chóng bị đuổi chạy. Để chức mừng thắng lợi, các binh lính đã sáng tác ra Lan Lăng Vương nhập trận khúc (蘭陵王入陣曲), rồi đeo mặt nạ vào và vừa múa vừa hát. Sử sách ghi chép rằng: “Trường Cung dung mạo dịu dàng nhưng lòng mạnh mẽ, quả thực tài mạo song toàn. Hết lòng yêu thương tướng sĩ, mỗi khi được cái gì thì cũng đều chia sẻ cùng tướng sĩ, dù là chỉ một vài quả dưa”(長恭貌柔心壯,音容兼美。為將躬勤細事,每得甘美,
雖一瓜數果,必與將士共之:Trường Cung mạo nhu tâm tráng, âm dung kiêm mỹ. Vị tướng cung cần tế sự, mỗi đắc cam mỹ, tuy nhất qua sổ quả, tất dữ tướng sĩ cộng chi).
Sau này, không biết vì sao mà Cao Trường Cung lại mắc phải một cái tật: tham tiền tài, của hối lộ ra vào tấp nập, khiến cho nhân dân bán tán xôn xao. Thuộc hạ của chàng là Uất (Uý) Tương Nguyện (尉相愿) hỏi rằng: “Bổng lộc của ngài cao như thế, hà tất phải tham lam như thế?”. Trường Cung không biết trả lời thế nào. Tương Nguyện bảo: “Có phải ngài sợ mình có công lao quá lớn, chúa thượng có điều e dè nên ngài cố ý bôi một tý tiếng xấu lên mặt mình?”. Trường Cung mới thốt rằng: “Chính phải”. Tương Nguyện nói: “Nếu triều đình đã tỏ lòng e dè ngài mà ngài làm như thế thì chẳng phải là tự mình thòi chóp ra cho người ta nắm hay sao? Ngài muốn cầu phúc nhưng lại rước lấy hoạ đấy”. Trường Cung ứa nước mắt, quỳ mọp xuống, xin anh ta hiến cho cách để được yên thân. Tương Nguyện nói: “Uy danh của ngài quá lớn, tốt nhất là nên ở nhà dưỡng bệnh, đừng có can dự vào chính sự nữa làm gì”. Trường Cung nghe lời khuyên can xong, bèn giả bệnh, nhưng lòng lại nghĩ nếu gác bỏ tất cả thì không cam tâm. Một nam tử hán đang tuổi hoa niên, ai lại muốn thoái lui? Huống chi chàng lại chẳng có một tính cách của một ẩn sĩ.
Hoàng đế Cao Vỹ (高纬) của cuối thời đại Bắc Tề một ngày nọ nghe Lan Lăng Vương nhập trận khúc bèn nói với Cao Trường Cung rằng: “Nhập trận quá sâu, chắc chắn nguy hiểm, nếu nhỡ thất bại, hối hận không kịp”. Trường Cung vô ý buột miệng: “Việc nhà đau đáu, thần đâu thể làm ngơ” (家事親切,不覺遂然:Gia sự thân thiết, bất giác toại nhiên). Cao Vỹ nghe thấy hai chữ “việc nhà”, trong lòng nảy sinh hiềm nghi, bèn sai người mang đến cho chàng một chung độc dược. Thế là, hoàng đế giết người mà hoàn toàn không có một lý do nào. Năm Cao Trường Cung mất không được ghi lại trong sách sử, chỉ ước đoán rằng lúc ấy chàng khoảng ba mươi tuổi. Chàng mất đi để lại Trịnh phi goá phụ sớm hôm sống trong đau khổ cùng cực, nàng bèn quy y nơi cửa Phật và sống hết đời của mình tại đấy. Bốn năm sau, nước Bắc Tề do đã mất đi rường cột nên không còn vững mạnh, bị Vũ Văn thị tiêu diệt, con cháu của họ Cao (dòng hoàng thất) toàn bộ đều bị giết sạch.
(ST)
『男由輪廓而都,女由線條而美』(Nam do luân quách nhi đô, nữ do tuyến điều nhi mỹ)
Du đại phu đời Minh mạt là một vị quan rất thích nam sắc, ông từng bảo rằng: “Nói về sắc đẹp trong thiên hạ thì nữ không đuổi kịp nam. Ở các loài có lông vũ từ chim phượng hoàng, khổng tước cho đến con gà, con trĩ, màu sắc rực rỡ đều thuộc về con trống; sắc lông của loài chó, ngựa cũng đều như thế”(天下之色,皆男勝女。羽族自鳳凰、孔雀以及雞雉之屬,文弢r />??並屬属于雄,犬馬之毛澤亦然:Thiên hạ chi sắc, giai nam thắng nữ. Vũ tộc tự phụng hoàng, khổng tước cập kê trĩ chi thuộc, văn thái tính thuộc vu hùng, khuyển mã chi mao trạch diệc nhiên) [情史•情外類Tình sử: Tình ngoại loại]. Cách quan sát của mấy trăm năm trước này quả thật là rất độc đáo, người ta đã nhận định chung rằng: trong loài chim chóc của nhóm động vật thì quả thực con trống có ngoại hình rất đẹp, và ngược lại, con mái thì thấp bé và có màu sắc nhạt nhẽo, đen đúa. Các nhà nghiên cứu khi đi tìm về nguyên nhân này đã nhận định, đấy chính là kết quả của việc chọn lựa trong quan hệ tính dục. Con trống do muốn tranh giành con mái nên giữa chúng phải tiến hành một cuộc so sánh về ngoại hình, cuộc cạnh tranh này đã mặc định vẻ đẹp của con trống là vẻ đẹp của sự hào hoa và cường tráng.
Xét về nhân loại, ngay từ thời kỳ cổ đại, giữa hai giới tính của con người trong xã hội luôn có một khoảng cách rất lớn: phần lớn nam giới đều là người nắm giữ quyền lực và của cải, có một địa vị rất cao và có khả năng chi phối người phụ nữ. Kết quả là người phụ nữ nào muốn có được một cuộc sống an nhàn, vui sướng thì phải chăm chút đến dung nhan của mình (女為悅己者容:nữ vị duyệt kỷ giả dung), từ đó, phụ nữ trở thành đối tượng chủ yếu để người khác ngắm nhìn, đồng thời, vẻ đẹp của người phụ nữ cũng trở thành trọng tâm của cái đẹp trong thế giới loài người. Nhưng không hoàn toàn vì thế mà có thể nói rằng nam giới không đẹp bằng phụ nữ, chỉ là, cái đẹp của nam giới tương đối bị xem nhẹ một chút. Kinh Thi có câu thơ hình dung về một mỹ nam như sau: “Chao ôi phương phi sao, Chàng cao lớn làm sao. Chao ôi tươi tắn sao, Thanh cao dịu dàng sao” (猗 嗟昌兮,頎而長兮。猗嗟娈兮,清揚婉兮:Y giai xương hề, Kỳ nhi trường hề. Y giai loan hề, thanh dương uyển hề) [Kinh Thi, chương Y Giai]. Cổ từ cũng nói rằng: “Đá kết như ngọc quý, thân tùng như ngọc xanh. Vẻ tươi riêng một cõi, thiên hạ chẳng người tranh” (積石如玉,列松如翠。郎艷獨絕,世無其匹:Tích thạch như ngọc, liệt tùng như thuý. Lang diễm độc tuyệt, thế vô kỳ thất) [Nhạc phủ thi tập, quyển 47].
Nếu so sánh với các mỹ nữ, thì các mỹ nam được gới thiệu ở đây cũng sẽ là những người được lựa chọn, cân nhắc theo những tiêu chí như diện mạo, hình thể, sức hấp dẫn, tài nghệ, trí tuệ… Một điều cần nhắc đến ở đây là, cũng giống như thập đại mỹ nữ Trung Quốc cổ đại, thập đại mỹ nam Trung Quốc cổ đại cũng không hẳn phải là người đẹp nhất, mà thường là những nhân vật có liên quan và có những đóng góp nhất định đến nền chính trị, xã hội đương thời, được sách sử (bao gồm cả dã sử, huyền sử) hay tác phẩm văn học (văn học dân gian, văn học bác học) ghi chép lại. Tương đối phù hợp với những tiêu chí đó là mười mỹ nam sau đây:
1. Phan An (潘安)
Phan Nhạc (潘岳) - một tên khác của Phan An, là người Hà Nam sống vào thời Tây Tấn, tên chữ là An Nhân (安仁), biệt hiệu là Đàn Nô (檀奴). Đây là một kỳ nhân của lịch sử Trung Quốc cổ đại, sở hữu một tư dung đã tốt, tinh thần thêm đẹp (姿容既好,神情亦佳:tư dung ký hảo, tinh thần diệc giai), vì thế trong dân gian có câu: “mặt tựa Phan An” (貌比潘安:mạo tỷ Phan An). Thời trẻ, Phan Nhạc có lần cưỡi xe ra ngoài thành Lạc Dương chơi, lúc ấy có rất nhiều phụ nữ luống tuổi sau khi gặp đều bất giác quay đầu lại nhìn, thậm chí có người si mê đã chạy đuổi theo. Do vậy, Phan An sợ đến mức thường không dám ra ngoài cửa. Có nhiều cô gái đang tuổi hoa niên cảm thấy khó có cơ hội được gần gũi, bèn ném quả vào xe của chàng, cứ mỗi lần trở về thì xe của chàng cũng đầy những quả chín, vì vậy mà trong dân gian thường nói “ném quả đầy xe”. Sau này, biệt hiệu “Đàn Nô” (檀奴) hay “Đàn Lang” (檀郎) sử dụng trong văn học cũng đã trở thành từ ngữ dùng để gọi một chàng trai nào đó được xem là tuấn tú. Có một người có dung mạo cực kỳ xấu xí tên là Trương Mạnh Dương (張孟陽) cũng bắt chước dáng điệu Phan Nhạc và đi ra ngoài thành chơi, nhưng mỗi lần ra khỏi cửa thì các chị em đều nhổ nước bọt, ném đá vào xe của anh ta, thế là, xe của anh ta cũng chất đầy đá mà trở về. Đây quả thực là một phiên bản khác của câu chuyện Đông Thi hiệu tần (Đông Thi bắt chước dáng điệu nhăn mặt của Tây Thi)!
Không những là một người có diện mạo đẹp như gấm thêu, mà Phan Nhạc còn là một người viết ra những áng văn chương cũng đẹp như hoa như gấm: từ nhỏ đã lộ rõ tài năng văn chương thiên phú, được người trong làng gọi là kỳ đồng. Vào năm chàng 12 tuổi, một lần Tấn Võ Đế Tư Mã Viêm nhân lúc cao hứng đã ra lệnh cho mọi người viết văn thơ, kết quả là tác phẩm của Phan Nhạc là bài hay nhất. Các quan đại thần nhìn qua, tác giả của bài thơ ấy là một tên mặt trắng còn non nớt, bèn lấy làm ganh ghét, lập tức đuổi chàng ra khỏi triều đình. Sau mười năm nhàn nhã với thơ phú, Phan Nhạc cuối cùng cũng đã được thu dụng làm quan, giữ chức huyện thái lệnh huyện Hà Dương và cũng có chút công lao đối với việc triều chính. Lúc ấy, ở huyện Hà Dương có trồng rất nhiều cây đào nên người ta gọi chàng là “nhất huyện hoa”. Từ đó về sau, con đường quan lại của chàng luôn không được suôn sẻ mà có lúc thăng lúc giáng, mãi đến năm Nguyên Khang thứ sáu (296), chàng mới trở về Lạc Dương nhậm chức Kinh quan. Một chàng thiếu niên đầy tài năng và dung mạo tuyệt thế của ngày xưa giờ tóc đã hoa râm, đã nếm đủ mọi đắng cay gian khổ trên chốn quan trường, tai đã nghe qua và mắt đã thấy qua những người luôn a dua xu phụ kẻ khác.
Lúc này, quyền lực chính trường rơi vào tay của mụ hoàng hậu xấu xí Giả Nam Phong. Cháu bên ngoại của mụ là Giả Ích rất thích kết giao qua lại với các quan khách, cùng nhau tổ chức nên một hội văn nhân có tên là “Nhị thập tứ hữu” (hai mươi bốn người bạn), dùng chữ nghĩa để dấy lên cơn phiến động trong tập đoàn ngoại thích của Giả hậu. Trong khi đó, mụ ta muốn phế truất thái tử, nhưng Phan Nhạc lại là người bất hạnh khi rơi vào trong âm mưu này: Giả Nam Phong đã phái một quan nhân dưới trướng của mình chuốc cho thái tử uống say rồi bắt Phan Nhạc viết một bài văn tế thần, đồng thời bắt thái tử sao chép lại. Thái tử do uống say nên thần trí không được minh mẫn, đành viết bừa một lúc. Sau khi nhận bài văn của thái tử xong, Phan Nhạc lại sửa một vài nét chữ, biến nó thành một bài văn có ý phản nghịch, khiến thái tử phải bị phế truất, mẹ đẻ của thái tử bị bức tử. Tuy không phải là người lập ra kế hoạch phế truất thái tử, nhưng rõ ràng Phan Nhạc lại là người có vai trò làm khuấy động nên âm mưu này, do vậy, tuy gian kế đã thành công nhưng chàng cũng không được yên. Sau khi thái tử mất, Triệu vương Tư Mã Luân lấy cớ báo thù bèn dấy cơn binh biến và tấn công vào cung, dẹp bè đảng của Giả hậu. Trước đấy, Phan Nhạc đã từng đắc tội với người bạn của Triệu vương nên sau cuộc loạn Bát vương, Triệu vương Tư Mã Luân vừa đoạt được chính quyền đã lập tức ra lệnh bắt Phan Nhạc và phán định hình phạt tru di tam tộc.
Trong cơn loạn Bát vương, Phan Nhạc lại là người tham gia tích cực, vì thế mà chàng phải mang một tội danh lớn: giúp hổ làm ma. Nhưng không vì thế mà vấn đề công và tội của chàng làm mờ đi nét tài hoa trong văn phong, sự tinh tế trong miêu tả của chàng.
Trong cuộc sống, Phan Nhạc là một người rất tốt. Đính hôn từ năm hơn mười tuổi, đối với người vợ kết tóc xe tơ họ Dương, chàng rất mực chung tình. Dương thị mất năm Nguyên Khang thứ 8 (298) khiến Phan Nhạc đau buồn triền miên, viết nên những bài từ điếu vong chứa đầy tình cảm son sắt keo sơn, và đây cũng chính là những bài hay nổi tiếng trong mảng đề tài này. Nhưng đáng tiếc là do mộng công danh quá nặng, gấp gáp trên đường thăng tiến, lại không biết thoả mãn với những gì đã có nên cuối cùng chàng phải mang tội tử.
2. Lan Lăng vương (蘭陵王)
Lan Lăng Vương tên là Cao Trường Cung (高長恭), lại có tên là Cao Hiếu Quán (高孝瓘), là cháu của Cao Hoan (高歡) – một vị đại thừa tướng phong lưu anh hùng khởi nghiệp từ bàn tay trắng, một vị đại thần của Đông Nguỵ. Sau khi ông mất, trưởng tử của ông là Cao Trừng (高澄) tiếp tục lên làm quyền thần thời Đông Nguỵ. Cao Trừng rất sáng suốt trên mảng chính trị, nhưng vào năm 29 tuổi thì lại chết trong tay của bọn nô lệ, để lại sáu đứa con nheo nhóc; trong đó, người con thứ tư đã trở thành Lan Lăng vương được truyền danh ngàn đời nay.
Cao Trường Cung rất kiêu dũng thiện chiến. Tương truyền rằng, vì chàng có vẻ ngoài rất dịu dàng đẹp đẽ, không đủ làm cho kẻ địch khiếp sợ, nên mỗi lần ra trận đều phải đeo chiếc mặt nạ dữ tợn vào. Đời sau có một câu chuyện nổi tiếng kể lại rằng: một lần đi cứu viện Lạc Dương, chàng lãnh suất năm trăm kỵ sĩ, xông qua vòng vây của quân Chu, đột nhập vào thành Lạc Dương. Các binh lính trên thành không nhận ra là ai đã đến, cứ chần chừ vì hoài nghi đó là mưu kế của quân địch. Lan Lăng Vương bèn cởi bỏ khôi giáp (chú ý: đây là chiếc mũ trụ lớn che phần mặt mà không phải là mặt nạ; điển cố “Lang Lăng Vương đeo mặt nạ” có lẽ là do người đời sau thêm thắt vào) để cho binh lính nhìn thấy rõ diện mạo của mình, binh lính trên thành lòng bỗng rúng động vì trông thấy tôn dung, bèn có hơn trăm cung thủ bước đến nghênh đón. Thế là quân Chu nhanh chóng bị đuổi chạy. Để chức mừng thắng lợi, các binh lính đã sáng tác ra Lan Lăng Vương nhập trận khúc (蘭陵王入陣曲), rồi đeo mặt nạ vào và vừa múa vừa hát. Sử sách ghi chép rằng: “Trường Cung dung mạo dịu dàng nhưng lòng mạnh mẽ, quả thực tài mạo song toàn. Hết lòng yêu thương tướng sĩ, mỗi khi được cái gì thì cũng đều chia sẻ cùng tướng sĩ, dù là chỉ một vài quả dưa”(長恭貌柔心壯,音容兼美。為將躬勤細事,每得甘美,
雖一瓜數果,必與將士共之:Trường Cung mạo nhu tâm tráng, âm dung kiêm mỹ. Vị tướng cung cần tế sự, mỗi đắc cam mỹ, tuy nhất qua sổ quả, tất dữ tướng sĩ cộng chi).
Sau này, không biết vì sao mà Cao Trường Cung lại mắc phải một cái tật: tham tiền tài, của hối lộ ra vào tấp nập, khiến cho nhân dân bán tán xôn xao. Thuộc hạ của chàng là Uất (Uý) Tương Nguyện (尉相愿) hỏi rằng: “Bổng lộc của ngài cao như thế, hà tất phải tham lam như thế?”. Trường Cung không biết trả lời thế nào. Tương Nguyện bảo: “Có phải ngài sợ mình có công lao quá lớn, chúa thượng có điều e dè nên ngài cố ý bôi một tý tiếng xấu lên mặt mình?”. Trường Cung mới thốt rằng: “Chính phải”. Tương Nguyện nói: “Nếu triều đình đã tỏ lòng e dè ngài mà ngài làm như thế thì chẳng phải là tự mình thòi chóp ra cho người ta nắm hay sao? Ngài muốn cầu phúc nhưng lại rước lấy hoạ đấy”. Trường Cung ứa nước mắt, quỳ mọp xuống, xin anh ta hiến cho cách để được yên thân. Tương Nguyện nói: “Uy danh của ngài quá lớn, tốt nhất là nên ở nhà dưỡng bệnh, đừng có can dự vào chính sự nữa làm gì”. Trường Cung nghe lời khuyên can xong, bèn giả bệnh, nhưng lòng lại nghĩ nếu gác bỏ tất cả thì không cam tâm. Một nam tử hán đang tuổi hoa niên, ai lại muốn thoái lui? Huống chi chàng lại chẳng có một tính cách của một ẩn sĩ.
Hoàng đế Cao Vỹ (高纬) của cuối thời đại Bắc Tề một ngày nọ nghe Lan Lăng Vương nhập trận khúc bèn nói với Cao Trường Cung rằng: “Nhập trận quá sâu, chắc chắn nguy hiểm, nếu nhỡ thất bại, hối hận không kịp”. Trường Cung vô ý buột miệng: “Việc nhà đau đáu, thần đâu thể làm ngơ” (家事親切,不覺遂然:Gia sự thân thiết, bất giác toại nhiên). Cao Vỹ nghe thấy hai chữ “việc nhà”, trong lòng nảy sinh hiềm nghi, bèn sai người mang đến cho chàng một chung độc dược. Thế là, hoàng đế giết người mà hoàn toàn không có một lý do nào. Năm Cao Trường Cung mất không được ghi lại trong sách sử, chỉ ước đoán rằng lúc ấy chàng khoảng ba mươi tuổi. Chàng mất đi để lại Trịnh phi goá phụ sớm hôm sống trong đau khổ cùng cực, nàng bèn quy y nơi cửa Phật và sống hết đời của mình tại đấy. Bốn năm sau, nước Bắc Tề do đã mất đi rường cột nên không còn vững mạnh, bị Vũ Văn thị tiêu diệt, con cháu của họ Cao (dòng hoàng thất) toàn bộ đều bị giết sạch.
(ST)