Thơ Tú Xương ( Sưu tầm )

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Phần I: Tự trào

Tự cười mình
Ta chẳng ra chi
Hỏi mình
Hỏi đùa mình
Cảm hứng
Quan tại gia
Thói đời
Mùa nực áo bông
Thái vô tích
Than thân chưa đạt
Đi thi nói ngông
Thầy đồ dạy học
Đi thi
Phú hỏng khoa Canh Tí

Phần II: Phong nguyệt tình hoài giang hồ khí cốt

Tết dán câu đối
Ba cái lăng nhăng
Thú cô đầu
Tết tặng cô đầu
Đi hát mất ô
Không chiều đãi
Hỏi ông trời
Tự đắc
Chú Mán Nghèo mà vẫn vui
Áo bông che bạn
Hoá ra dưa
Gửi người cũ
Nhớ bạn phương trời
Cái nhớ
Hỏi ông trăng
Chiêm bao
Văn tế sống vợ
Phú thầy đồ dạy học

Phần III: Nỗi đời

Thương vợ
Khóc em gái
Than nghèo
Một nén tâm hương
Gần tết, than việc nhà
Đau mắt
Thề với người ăn xin
Than cùng
Đêm hè
Chợt giấc
Dạ hoài
Đêm dài
Thiếu nữ đi tu
Viếng bạn
Cảm tết
Lấy lẽ
Vị Hoàng hoài cổ
Sông Lấp
Than đạo học
Chữ Nho
Hỏng thi khoa Quí Mão
Buồn thi hỏng
Hễ mai tớ hỏng
Tết cô đầu
Lụt năm Bính Ngọ
Mưa tháng Bảy
Đại hạn
Gửi ông thủ khoa Phan
Câu đối Tết
Câu đối than thân

Phần IV: Tấn tuồng đời

Đất Vị Hoàng
Vì tiền
Đồng tiền
Tiến sĩ giấy
Chế ông đốc học
Bỡn tri phủ Xuân Trường
Chế ông huyện Đ.
Ông Hàn
Ông ấm
Đùa bạn ở tù
Bợm già
Đạo đức giả
Ông Hàn bị vợ doạ bỏ
Sư ở tù
Con buôn
Nước buôn
Chửi cậu ấm
Mồng hai Tết viếng cô Kí
Thông gia với quan
Lên đồng
Sư ông và mấy ả lên đồng
Than sự thi Năm mới
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (1897)
Giễu người thi đỗ
Khoa Canh Tí
Bác cử Nhu
Ông cử
Ba Ông tiến sĩ mới
Không học vần Tây
Đổi thi
Ông cử thứ năm
Mừng ông lang
Mừng ông cử lấy vợ kế
Câu đối mừng ông phó Huyến
Kể lai lịch
Để vợ chơi nhăng
Mẹ vợ với chàng rể
Phòng không
Cô Tây đi tu
Bỡn ông ấm Điềm
Nhà nho giả danh
Phố Hàng Song
Ông cò
Cô hầu trách quan lớn
Hót của trời
Ngày xuân của làng thơ
Năm mới chúc nhau
Xuân Hát tuồng
Phường nhơ

Lời giới thiệu
(Kiều Văn)

37 năm của cuộc đời Tú Xương (1870 - 1907) nằm trọn trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi thảm: Triều đình nhà Nguyễn vốn lạc hậu và bảo thủ, đang trên đà suy sụp, rốt cuộc đã bán đứng đất nước ta cho thực dân Pháp. Việc chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm nhập vào Việt Nam đã làm thay đổi sâu sắc đất nước ta về tất cả mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức và xã hội.

Thế nhưng Việt Nam đâu có trở thành một nước tư bản chủ nghĩa thực thụ! Trái lại nó bị giam hãm trong cơ chế của một nước phong kiến nửa thuộc địa. Bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX là một bức tranh xám xịt, nham nhở.

Toàn bộ vùng nông thôn rộng lớn vẫn chìm trong đêm tối của cảnh nghèo khốn, lạc hậu. Còn ở các vùng kẻ chợ như Hà Nội và Nam Định (quê Tú Xương) thì phơi bày một cảnh đời đồi bại và lố lăng. Tú Xương là một con người có đầy đủ lương tri và bản lĩnh của một trí thức Việt Nam phong kiến chân chính.

Nói như Tehernychevsky, nhà triết học và văn hào Nga thế kỉ XIX - ông là "nguyên động lực của động lực", là "tinh chất muối trong muối của trần gian". Tú Xương có tài văn chương xuất chúng, có cái TÂM của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, yêu nước, thương xót giống nòi; có cái trí của một người lỗi lạc biết được cái gì có thể chấp nhận và cái gì phải phủ nhận trên thế giới này; có cái Hồn của một nhà lãng mạn chủ nghĩa tầm vóc nhân loại. Số phận của bản thân ông phản ánh số phận của dân tộc ông thời ấy. Đó là bi kịch của một con người "tiến thoái lưỡng nam".

Ông không thể cam tâm "vứt bút lông đi giắt bút chì" để trở thành "Chẳng kí, không thông cũng cậu bồi" như những kẻ vô liêm sỉ khác. Ông cũng không phải hạng hủ nho vùi đầu vào kinh sử, quanh năm "đẽo gọt con sâu". Chính vì vậy mà ông đến nỗi "tám khoa chưa khỏi phạm trường qui".

Phẩm cách sĩ phu thôi thúc ông phải đỗ đạt, phải "lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ". Tú Xương đã không tìm ra được một con đường tiến thân đúng đắn. Những bế tắc về tư tưởng, về công danh, và cảnh khốn cùng đã khiến ông phẫn chí, có lúc tưởng chừng phát điên phát dại. Một nhân cách lớn và một tài năng lớn như Tú Xương lẽ nào lại chịu "tan nát với cỏ cây"?

Tú Xương đã, không phải "nhả ngọc phun châu" mà nhả đạn ra ngoài miệng bắn phá cái cuộc đời xấu xa bẩn thỉu đang diễn ra xung quanh ông. Ông đã trút vào văn thơ tất cả những nỗi ưu uất của lòng mình. Mải sống, mải chơi, mải vẫy vùng và "bắn phá", Tú Xương có lẽ không hề nghĩ đến cái thành quả, cái "sự nghiệp" đích thực của chính ông. Ông đã nói và nói thật rằng : Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế có ra gì!

Trái với cái ý nghĩ tuyệt vọng đó, lịch sử đã xác nhận: Thành quả lớn nhất của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX thuộc về dòng văn chương hiện thực - trữ tình - trào phúng với hai nhà thơ lỗi lạc: Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Về nội dung, thơ Tú Xương mang tính chất hiện thực cao độ, phản ánh cả một xã hội "kẻ chợ" (thành phố Nam Định) với đủ mọi hạng người, và phản ánh sự suy đồi của nền đạo đức luân lí trong thời buổi giao thời ấy.

Thơ văn Tú Xương cũng khắc hoạ được hình tượng một "nhân vật của thời đại". Đó là bản thân Tú Xương : một nhân vật có tâm hồn cao đẹp và lãng mạn, có phẩm cách, tài năng xuất chúng nhưng tiếc thay lại chưa tìm được cho mình một lí tưởng chân chính, rốt cuộc trở thành một nhân vật bi kịch. Không ở đâu "cái tôi" được miêu tả một cách sắc nét và đầy cá tính như trong thơ văn Tú Xương.

Đó chính là " sự gặp gỡ không hẹn mà nên" giữa thơ Tú Xương với các trường phái văn học phương Tây. Thơ văn Tú Xương cũng hàm chứa những tình cảm vô cùng sâu sắc: Những nối ưu tư với số phận của đất nước, với nền văn học và đạo đức của dân tộc, với những thiên tai, với muôn ngàn cảnh khổ của con người và nỗi đau đớn dằn vặt khôn xiết kể của chính nhà thơ. Thơ văn Tú Xương còn ghi lại hình ảnh người vợ mà nhà thơ vô cùng yêu quí. Đó là hình ảnh của một phụ nữ Việt Nam điển hình, cho đến nay vẫn khiến chúng ta rung cảm.

Về nghệ thuật, thơ Tú Xương đạt tới đỉnh cao bậc nhất ở thời đại ông. Tú Xương hầu như hoàn toàn chỉ sáng tác thơ nôm. Ông là người khẳng định triệt để giá trị và khả năng to lớn của tiếng Việt. Ông được người đời sau tôn là bậc " thần thơ thánh chữ". Ngôn từ của ông tài tình không kém nữ sĩ Hồ Xuân Hương trước kia nhưng phong phú hơn. Bằng tiếng nói thông thường, bằng những câu cửa miệng của người bình dân, Tú Xương sáng tác những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài nghệ của ông mà sau này chỉ có Nguyễn Bính sánh được.

Tính chất trào phúng vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản tính của con người Việt Nam, đến Tú Xương đã được sử dụng triệt để và tung hoành như một lợi khí sắc bén. Tiếng cười trong thơ Tú Xương mạnh mẽ, luôn tạo nên những "Cú chết bất ngờ" cho kẻ nào bị ông đả kích. Tú Xương, cũng như Vũ Trọng Phụng sau này, có biệt tài đưa những mảng hiện thực gần như trần trụi của cuộc sống vào trong thơ văn, vậy mà lại tạo ra được những tác phẩm hay đến mức thần tình.

Tú Xương mất đã gần 90 năm, vậy mà văn thơ của ông đối với chúng ta hôm nay vẫn gần gũi, vẫn sống động vô cùng. Nỗi đau đời, những trăn trở riêng chung, tiếng cười của ông và bút pháp tài tình của ông thể hiện trong hàng trăm tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại (thơ, phú, văn tế, ca trù, câu đối, .. ..), tất cả đã đưa ông lên vị trí một trong những nhà thơ lớn nhất của dân tộc.

TP. Hồ Chí Minh tháng 2 - 1996
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Phần I: Tự trào

Tự cười mình

I

Ở phố Hàng Nâu (1) có phỗng sành
Mặt thời lơ láo, mắt thời xanh (2)
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi
Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành.

II

Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười : thằng bé nó hay chơi .. ..
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời .
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm (3)
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi.
Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột
Khéo khéo không mà nó cũng rơi.

(1) Phố Hàng Nâu (Nam Định) nơi Tú Xương ở.
(2) Có bản chép: "mắt thời nhanh".
(3) Con mụ: chỉ vợ nhà thơ (nói bỡn)
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Ta chẳng ra chi

Nếu có khôn ngoan đã vợ nhờ,
Dại mà nhờ vợ, vợ làm ngơ.
Sáng nem, bữa tối đòi ăn chả,
Nay kiệu, ngày mai lại giở cờ.
Ngồi đấy chả hơn gì chú Cuội
Nói ra thì thẹn với ông Tơ
Nhắn nhe chốn ấy tìm nơi khác
Ta chẳng ra chi, chớ đợi chờ !
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Hỏi mình

Trải mấy mươi năm vẫn thế ru?
Rằng khôn, rằng dại, lại ràng ngu?
Những là thương cả cho đời bạc
Nào có căm đâu đến kẻ thù?
No ấm chưa qua vành mẹ đĩ
Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu
Phen này có dễ trời xoay lại
Thằng bé con con đã chán cù.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Hỏi đùa mình

Ông có đi thi kí lục không?
Nghe ông quốc ngữ đọc chưa thông.
Ví dù nhà nước cho ông đỗ
Mỗi tháng lương ông được mấy đồng ?
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Cảm hứng

Xấp xỉ ba mươi mấy tuổi đầu
Trăm năm tính đốt hãy còn lâu.
Ví cho thi đỗ làm quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới chị hầu.
Đất nọ vẫn thường hay có chạch (1)
Bể kia có lúc cũng trồng dâu (2)
Hôm nay rỗi rãi buồn tình nhỉ
Thử xuống Hàng Thao đập ngón chầu (3)

(1) Tục ngữ "đất sỏi chạch vàng", ý nói đất tầm thường vẫn có thể sinh người tài giỏi.
(2) Do câu "biển xanh biến thành nương dâu" (thương hải biến vi tang điền).
(3) Hàng Thao, nơi có xóm cô đầu.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Quan tại gia

Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng (1)
Bốn con làm tính, bố làm quan.
Câu thơ câu phú: sưu cùng thuế,
Nghiên mực nghiên son : tổng với làng (2)
Nước, quạt chưa xong, con nhảy ngựa (3)
Trống hầu vừa dứt, bố lên thang (4)
Hỏi ra quan ấy ăn lương .. .. vợ
Đem chuyện trăm năm giở lại bàn. (5)

(1) Quyển vàng: sách quí của quan.
(2) Cảnh chơi trò làm quan : gọi thơ phú là "sưu thuế", gọi mực, son là "việc tổng việc làng".
(3) Con chưa quạt bếp nấu xong nước đã đi chơi trò "nhảy ngựa" (nhảy lên lưng nhau)
(4) Đến giờ làm việc thì bố lên gác.
(5) Việc "quan" té ra toàn tâm sự với vợ nhà về những chuyện đời muôn thuở.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Thói đời


Người bảo ông điên, ông chẳng điên
Ông thương ông tiếc hoá ông phiền .
Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ (1)
Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền.
Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch (2)
Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.
Khi cười khi khóc khi than thở
Muốn bỏ văn chương học võ biền!

(1) Biết gì chuyện chữ nghĩa !
(2) Tục ngữ : ở bể vào ngòi.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Mùa nực áo bông


Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông.
Tưởng rằng ốm dậy, hoá ra không !
Một tuồng rách rưới, con như bố
Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng.
Đất biết bao giờ sang vận đỏ,
Trời làm cho bõ lúc chơi ngông.
Gần chùa gần cảnh ta tu quách,
Cửa phận quanh năm sẵn áo sồng.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Thái vô tích (1)

Trời đất sinh ra chán vạn nghề
Làm thầy, làm thợ, lại làm thuê.
Bác này mới thật thái vô tích :
Sáng vác ô đi, tối vác về !

(1) Tác giả tự giễu mình
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Than thân chưa đạt

Ta phải trang xong cái nợ ta,
Lẽ đâu chịu nợ mãi ru mà ?
Đường con, bu nó một năm một
Tính tuổi nhà thầy : ba lẻ ba.
Mở mặt quyết cho vua chúa biết,
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già !
Năm nay ta học, năm sau đỗ,
Chẳng những Lương Đường có thủ khoa (1)

(1) Lương Đường : tên làng của vợ tác giả,
(Hải Dương) có nhiều người thi đỗ.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Đi thi nói ngông

Ông trông lên bảng thấy tên ông (1)
Ông tớp rượu vào, ông nói ngông.
Trên bảng năm hai thầy cử đội (2)
Bốn kì mười bảy cái ưu thông (3)
Xướng danh tên gọi trên mình tượng (4)
Ăn yến xem ra có thịt công.
Cụ xứ (5) có cô con gái đẹp
Lăm le xui bố cưới làm chồng !

(1) Tác giả tưởng tượng một cách "ngông".
(2) Lệ thi chỉ lấy đậu có 50 cử nhân, mà trên bảng lại có 52 vị cử nhân đứng dưới tác giả ! (nói ngông).
(3) Cả bốn kì, tối đa mới có 16 điểm ưu (ưu thông) mà tác giả được những .. .. 17 điểm !
(4) Người xướng danh thí sinh thi đỗ, ngồi trên mình voi.
(5) Cụ Hàn Doãn Trực, đỗ đầu xứ, có 2 con gái đẹp, đang kén chồng đỗ cử nhân.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Thầy đồ dạy học

Có một cô lái nuôi một thầy đồ (1)
Quần áo rách rưới, ăn uống xô bồ (2)
Cơm hai bữa : cá kho, rau muống;
Quà một chiều (3) : khoai lang, lúa ngô.
Sao dám khinh mình : " Thầy đâu thầy bậy thầy bạ" ?
Chẳng biết trọng đạo, cô (4) gì : " cô lốc, cô lô " !

(1) Cô lái : chỉ vợ (bỡn). Thầy đồ : tác giả.
(2) Ăn uống cẩu thả, không kén chọn .
(3) Tức một buổi, một lần, một bữa.
(4) Cô (vai trò vợ của thầy).
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Đi thi

Tấp tểnh người đi tớ cũng đi,
Cũng lều cũng chõng cũng vào thi .
Tiễn chân, cô (1) mất hai đồng chẵn,
Sờ bụng : thầy không một chữ gì !
Lộc nước còn mong thêm giải ngạch (2)
Phúc nhà nay được sạch trường qui.
Ba kì trọn vẹn thêm kì nữa,
Ú ớ u ơ ngọn bút chì. (3)

(1) Tức vợ tác giả
(2) Mong lấy thêm người đỗ
(3) Từ 1897, kì thứ tư "quốc ngữ" viết các chữ như a, ă, â, v.v... nhà nho dùng bút chì vẽ các chữ này, vừa tức cười, vừa tủi nhục.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Phú hỏng khoa Canh Tý (1900)

Đau quá đòn hằn ;
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút hổ nghiên ;
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý" (1) thêm nỗi thẹn thùng ;
Ngắm đến câu "quyển thổ trùng lai" (2) nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng ;
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.

Có một thầy :
Dốt chẳng dốt nào ;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng. (3)
Quanh năm phong vận, áo hàng tầu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh (4) ;
Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ, bít tất tơ, giày Gia Định bóng.
Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ ;
Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già, hoá ra lóng đóng.
Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa ;
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng (5)
Năm vua Thành Thái mười hai ;
Lại mở khoa thi Mĩ Trọng (6)
Kì đệ tam văn đã viết rồi ;
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò ;
Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng.
Sáng đi lễ phật, còn kì này kì nữa là xong ;
Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.

Nào ngờ :
Bảng nhỏ có tên
Ngoại hàm còn trống. (7)
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang ;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai ?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng !
Thôi thời thôi :
Sáng vở mập mờ ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy ;
Khoa sau ắt chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài ;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng !

(1) Người lành đắc ý (tin tưởng vận may)
(2) Phản công lại.
(3) Xuống lõng : Xuống thuyền (chơi bời, hát xướng).
(4) Ô lục soạn : ô bằng vải nhiễu lụa.
(5) Cảnh nọng : khoanh thịt ở cổ súc vật được làm thịt, dành cho vị chức sắc.
(6) Nơi đặt trường thi.
(7) Tức bị đánh hỏng (vi phạm trường qui hoặc nộp quyển chậm).
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Phần II: Phong nguyệt tình hoài giang hồ khí cốt
(Tấm tình trăng gió, cốt cách giang hồ)

Tết dán câu đối

Nhập thế cục bất khả vô văn tự, (1)
Chẳng hay ho cũng húng hắng một vài bài
Huống thân danh đã đỗ tú tài
Ngày tết đến cũng phải một vài câu đối.
Đối rằng :
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt. (2)
Viết vào giấy dán ngay lên cột Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay ?
Thưa rằng : hay thực là hay !
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài ?
Xưa nay em vẫn chịu ngài .. .. (3)

(1). Bước vào đời không thể không chữ nghĩa.
(2). Cái phẩm giá tột cùng ở cõi người là tấm tình với trăng gió.
Sự phong lưu bậc nhất trên cõi đời là cốt cách giang hồ.
(3). Câu "chịu ngài" của bà Tú hàm cả hai ý : chịu văn chương ngài hay và chịu cái tính "ngông" của ngài nữa !
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Ba cái lăng nhăng

Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà !
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Thú cô đầu

Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,
Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày.
Năm canh to nhỏ tình dơi chuột,
Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây.
Êm ái cung đàn chen tiếng hát
La đà kẻ tỉnh dắt người say.
Thú vui chơi mãi mà không chán,
Vô tận kho trời hết lại vay.
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Tết tặng cô đầu

Ngày xuân mừng quý khách
Khi vui, lọ đàn phách !
Chuyện nở như pháo rang
Chuyện dai như chão rách,
Đổ cả bốn chân giường
Xiêu cả một bức vách !
 

5saigon

Member
Joined
Feb 23, 2011
Messages
385
Points
18
Đi hát mất ô

Đêm qua anh đến chơi đây
Giầy chân anh dận, ô tay anh cầm.
Rạng ngày sang trống canh năm
Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ.
Hỏi ô, ô mất bao giờ,
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa.
Chỉ e rày gió mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình ?
 
Top Bottom