Phần I: Tự trào
Tự cười mình
Ta chẳng ra chi
Hỏi mình
Hỏi đùa mình
Cảm hứng
Quan tại gia
Thói đời
Mùa nực áo bông
Thái vô tích
Than thân chưa đạt
Đi thi nói ngông
Thầy đồ dạy học
Đi thi
Phú hỏng khoa Canh Tí
Phần II: Phong nguyệt tình hoài giang hồ khí cốt
Tết dán câu đối
Ba cái lăng nhăng
Thú cô đầu
Tết tặng cô đầu
Đi hát mất ô
Không chiều đãi
Hỏi ông trời
Tự đắc
Chú Mán Nghèo mà vẫn vui
Áo bông che bạn
Hoá ra dưa
Gửi người cũ
Nhớ bạn phương trời
Cái nhớ
Hỏi ông trăng
Chiêm bao
Văn tế sống vợ
Phú thầy đồ dạy học
Phần III: Nỗi đời
Thương vợ
Khóc em gái
Than nghèo
Một nén tâm hương
Gần tết, than việc nhà
Đau mắt
Thề với người ăn xin
Than cùng
Đêm hè
Chợt giấc
Dạ hoài
Đêm dài
Thiếu nữ đi tu
Viếng bạn
Cảm tết
Lấy lẽ
Vị Hoàng hoài cổ
Sông Lấp
Than đạo học
Chữ Nho
Hỏng thi khoa Quí Mão
Buồn thi hỏng
Hễ mai tớ hỏng
Tết cô đầu
Lụt năm Bính Ngọ
Mưa tháng Bảy
Đại hạn
Gửi ông thủ khoa Phan
Câu đối Tết
Câu đối than thân
Phần IV: Tấn tuồng đời
Đất Vị Hoàng
Vì tiền
Đồng tiền
Tiến sĩ giấy
Chế ông đốc học
Bỡn tri phủ Xuân Trường
Chế ông huyện Đ.
Ông Hàn
Ông ấm
Đùa bạn ở tù
Bợm già
Đạo đức giả
Ông Hàn bị vợ doạ bỏ
Sư ở tù
Con buôn
Nước buôn
Chửi cậu ấm
Mồng hai Tết viếng cô Kí
Thông gia với quan
Lên đồng
Sư ông và mấy ả lên đồng
Than sự thi Năm mới
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (1897)
Giễu người thi đỗ
Khoa Canh Tí
Bác cử Nhu
Ông cử
Ba Ông tiến sĩ mới
Không học vần Tây
Đổi thi
Ông cử thứ năm
Mừng ông lang
Mừng ông cử lấy vợ kế
Câu đối mừng ông phó Huyến
Kể lai lịch
Để vợ chơi nhăng
Mẹ vợ với chàng rể
Phòng không
Cô Tây đi tu
Bỡn ông ấm Điềm
Nhà nho giả danh
Phố Hàng Song
Ông cò
Cô hầu trách quan lớn
Hót của trời
Ngày xuân của làng thơ
Năm mới chúc nhau
Xuân Hát tuồng
Phường nhơ
Lời giới thiệu
(Kiều Văn)
37 năm của cuộc đời Tú Xương (1870 - 1907) nằm trọn trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi thảm: Triều đình nhà Nguyễn vốn lạc hậu và bảo thủ, đang trên đà suy sụp, rốt cuộc đã bán đứng đất nước ta cho thực dân Pháp. Việc chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm nhập vào Việt Nam đã làm thay đổi sâu sắc đất nước ta về tất cả mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức và xã hội.
Thế nhưng Việt Nam đâu có trở thành một nước tư bản chủ nghĩa thực thụ! Trái lại nó bị giam hãm trong cơ chế của một nước phong kiến nửa thuộc địa. Bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX là một bức tranh xám xịt, nham nhở.
Toàn bộ vùng nông thôn rộng lớn vẫn chìm trong đêm tối của cảnh nghèo khốn, lạc hậu. Còn ở các vùng kẻ chợ như Hà Nội và Nam Định (quê Tú Xương) thì phơi bày một cảnh đời đồi bại và lố lăng. Tú Xương là một con người có đầy đủ lương tri và bản lĩnh của một trí thức Việt Nam phong kiến chân chính.
Nói như Tehernychevsky, nhà triết học và văn hào Nga thế kỉ XIX - ông là "nguyên động lực của động lực", là "tinh chất muối trong muối của trần gian". Tú Xương có tài văn chương xuất chúng, có cái TÂM của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, yêu nước, thương xót giống nòi; có cái trí của một người lỗi lạc biết được cái gì có thể chấp nhận và cái gì phải phủ nhận trên thế giới này; có cái Hồn của một nhà lãng mạn chủ nghĩa tầm vóc nhân loại. Số phận của bản thân ông phản ánh số phận của dân tộc ông thời ấy. Đó là bi kịch của một con người "tiến thoái lưỡng nam".
Ông không thể cam tâm "vứt bút lông đi giắt bút chì" để trở thành "Chẳng kí, không thông cũng cậu bồi" như những kẻ vô liêm sỉ khác. Ông cũng không phải hạng hủ nho vùi đầu vào kinh sử, quanh năm "đẽo gọt con sâu". Chính vì vậy mà ông đến nỗi "tám khoa chưa khỏi phạm trường qui".
Phẩm cách sĩ phu thôi thúc ông phải đỗ đạt, phải "lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ". Tú Xương đã không tìm ra được một con đường tiến thân đúng đắn. Những bế tắc về tư tưởng, về công danh, và cảnh khốn cùng đã khiến ông phẫn chí, có lúc tưởng chừng phát điên phát dại. Một nhân cách lớn và một tài năng lớn như Tú Xương lẽ nào lại chịu "tan nát với cỏ cây"?
Tú Xương đã, không phải "nhả ngọc phun châu" mà nhả đạn ra ngoài miệng bắn phá cái cuộc đời xấu xa bẩn thỉu đang diễn ra xung quanh ông. Ông đã trút vào văn thơ tất cả những nỗi ưu uất của lòng mình. Mải sống, mải chơi, mải vẫy vùng và "bắn phá", Tú Xương có lẽ không hề nghĩ đến cái thành quả, cái "sự nghiệp" đích thực của chính ông. Ông đã nói và nói thật rằng : Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế có ra gì!
Trái với cái ý nghĩ tuyệt vọng đó, lịch sử đã xác nhận: Thành quả lớn nhất của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX thuộc về dòng văn chương hiện thực - trữ tình - trào phúng với hai nhà thơ lỗi lạc: Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Về nội dung, thơ Tú Xương mang tính chất hiện thực cao độ, phản ánh cả một xã hội "kẻ chợ" (thành phố Nam Định) với đủ mọi hạng người, và phản ánh sự suy đồi của nền đạo đức luân lí trong thời buổi giao thời ấy.
Thơ văn Tú Xương cũng khắc hoạ được hình tượng một "nhân vật của thời đại". Đó là bản thân Tú Xương : một nhân vật có tâm hồn cao đẹp và lãng mạn, có phẩm cách, tài năng xuất chúng nhưng tiếc thay lại chưa tìm được cho mình một lí tưởng chân chính, rốt cuộc trở thành một nhân vật bi kịch. Không ở đâu "cái tôi" được miêu tả một cách sắc nét và đầy cá tính như trong thơ văn Tú Xương.
Đó chính là " sự gặp gỡ không hẹn mà nên" giữa thơ Tú Xương với các trường phái văn học phương Tây. Thơ văn Tú Xương cũng hàm chứa những tình cảm vô cùng sâu sắc: Những nối ưu tư với số phận của đất nước, với nền văn học và đạo đức của dân tộc, với những thiên tai, với muôn ngàn cảnh khổ của con người và nỗi đau đớn dằn vặt khôn xiết kể của chính nhà thơ. Thơ văn Tú Xương còn ghi lại hình ảnh người vợ mà nhà thơ vô cùng yêu quí. Đó là hình ảnh của một phụ nữ Việt Nam điển hình, cho đến nay vẫn khiến chúng ta rung cảm.
Về nghệ thuật, thơ Tú Xương đạt tới đỉnh cao bậc nhất ở thời đại ông. Tú Xương hầu như hoàn toàn chỉ sáng tác thơ nôm. Ông là người khẳng định triệt để giá trị và khả năng to lớn của tiếng Việt. Ông được người đời sau tôn là bậc " thần thơ thánh chữ". Ngôn từ của ông tài tình không kém nữ sĩ Hồ Xuân Hương trước kia nhưng phong phú hơn. Bằng tiếng nói thông thường, bằng những câu cửa miệng của người bình dân, Tú Xương sáng tác những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài nghệ của ông mà sau này chỉ có Nguyễn Bính sánh được.
Tính chất trào phúng vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản tính của con người Việt Nam, đến Tú Xương đã được sử dụng triệt để và tung hoành như một lợi khí sắc bén. Tiếng cười trong thơ Tú Xương mạnh mẽ, luôn tạo nên những "Cú chết bất ngờ" cho kẻ nào bị ông đả kích. Tú Xương, cũng như Vũ Trọng Phụng sau này, có biệt tài đưa những mảng hiện thực gần như trần trụi của cuộc sống vào trong thơ văn, vậy mà lại tạo ra được những tác phẩm hay đến mức thần tình.
Tú Xương mất đã gần 90 năm, vậy mà văn thơ của ông đối với chúng ta hôm nay vẫn gần gũi, vẫn sống động vô cùng. Nỗi đau đời, những trăn trở riêng chung, tiếng cười của ông và bút pháp tài tình của ông thể hiện trong hàng trăm tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại (thơ, phú, văn tế, ca trù, câu đối, .. ..), tất cả đã đưa ông lên vị trí một trong những nhà thơ lớn nhất của dân tộc.
TP. Hồ Chí Minh tháng 2 - 1996
Tự cười mình
Ta chẳng ra chi
Hỏi mình
Hỏi đùa mình
Cảm hứng
Quan tại gia
Thói đời
Mùa nực áo bông
Thái vô tích
Than thân chưa đạt
Đi thi nói ngông
Thầy đồ dạy học
Đi thi
Phú hỏng khoa Canh Tí
Phần II: Phong nguyệt tình hoài giang hồ khí cốt
Tết dán câu đối
Ba cái lăng nhăng
Thú cô đầu
Tết tặng cô đầu
Đi hát mất ô
Không chiều đãi
Hỏi ông trời
Tự đắc
Chú Mán Nghèo mà vẫn vui
Áo bông che bạn
Hoá ra dưa
Gửi người cũ
Nhớ bạn phương trời
Cái nhớ
Hỏi ông trăng
Chiêm bao
Văn tế sống vợ
Phú thầy đồ dạy học
Phần III: Nỗi đời
Thương vợ
Khóc em gái
Than nghèo
Một nén tâm hương
Gần tết, than việc nhà
Đau mắt
Thề với người ăn xin
Than cùng
Đêm hè
Chợt giấc
Dạ hoài
Đêm dài
Thiếu nữ đi tu
Viếng bạn
Cảm tết
Lấy lẽ
Vị Hoàng hoài cổ
Sông Lấp
Than đạo học
Chữ Nho
Hỏng thi khoa Quí Mão
Buồn thi hỏng
Hễ mai tớ hỏng
Tết cô đầu
Lụt năm Bính Ngọ
Mưa tháng Bảy
Đại hạn
Gửi ông thủ khoa Phan
Câu đối Tết
Câu đối than thân
Phần IV: Tấn tuồng đời
Đất Vị Hoàng
Vì tiền
Đồng tiền
Tiến sĩ giấy
Chế ông đốc học
Bỡn tri phủ Xuân Trường
Chế ông huyện Đ.
Ông Hàn
Ông ấm
Đùa bạn ở tù
Bợm già
Đạo đức giả
Ông Hàn bị vợ doạ bỏ
Sư ở tù
Con buôn
Nước buôn
Chửi cậu ấm
Mồng hai Tết viếng cô Kí
Thông gia với quan
Lên đồng
Sư ông và mấy ả lên đồng
Than sự thi Năm mới
Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (1897)
Giễu người thi đỗ
Khoa Canh Tí
Bác cử Nhu
Ông cử
Ba Ông tiến sĩ mới
Không học vần Tây
Đổi thi
Ông cử thứ năm
Mừng ông lang
Mừng ông cử lấy vợ kế
Câu đối mừng ông phó Huyến
Kể lai lịch
Để vợ chơi nhăng
Mẹ vợ với chàng rể
Phòng không
Cô Tây đi tu
Bỡn ông ấm Điềm
Nhà nho giả danh
Phố Hàng Song
Ông cò
Cô hầu trách quan lớn
Hót của trời
Ngày xuân của làng thơ
Năm mới chúc nhau
Xuân Hát tuồng
Phường nhơ
Lời giới thiệu
(Kiều Văn)
37 năm của cuộc đời Tú Xương (1870 - 1907) nằm trọn trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi thảm: Triều đình nhà Nguyễn vốn lạc hậu và bảo thủ, đang trên đà suy sụp, rốt cuộc đã bán đứng đất nước ta cho thực dân Pháp. Việc chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm nhập vào Việt Nam đã làm thay đổi sâu sắc đất nước ta về tất cả mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, đạo đức và xã hội.
Thế nhưng Việt Nam đâu có trở thành một nước tư bản chủ nghĩa thực thụ! Trái lại nó bị giam hãm trong cơ chế của một nước phong kiến nửa thuộc địa. Bức tranh xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX là một bức tranh xám xịt, nham nhở.
Toàn bộ vùng nông thôn rộng lớn vẫn chìm trong đêm tối của cảnh nghèo khốn, lạc hậu. Còn ở các vùng kẻ chợ như Hà Nội và Nam Định (quê Tú Xương) thì phơi bày một cảnh đời đồi bại và lố lăng. Tú Xương là một con người có đầy đủ lương tri và bản lĩnh của một trí thức Việt Nam phong kiến chân chính.
Nói như Tehernychevsky, nhà triết học và văn hào Nga thế kỉ XIX - ông là "nguyên động lực của động lực", là "tinh chất muối trong muối của trần gian". Tú Xương có tài văn chương xuất chúng, có cái TÂM của một nhà nhân đạo chủ nghĩa, yêu nước, thương xót giống nòi; có cái trí của một người lỗi lạc biết được cái gì có thể chấp nhận và cái gì phải phủ nhận trên thế giới này; có cái Hồn của một nhà lãng mạn chủ nghĩa tầm vóc nhân loại. Số phận của bản thân ông phản ánh số phận của dân tộc ông thời ấy. Đó là bi kịch của một con người "tiến thoái lưỡng nam".
Ông không thể cam tâm "vứt bút lông đi giắt bút chì" để trở thành "Chẳng kí, không thông cũng cậu bồi" như những kẻ vô liêm sỉ khác. Ông cũng không phải hạng hủ nho vùi đầu vào kinh sử, quanh năm "đẽo gọt con sâu". Chính vì vậy mà ông đến nỗi "tám khoa chưa khỏi phạm trường qui".
Phẩm cách sĩ phu thôi thúc ông phải đỗ đạt, phải "lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ". Tú Xương đã không tìm ra được một con đường tiến thân đúng đắn. Những bế tắc về tư tưởng, về công danh, và cảnh khốn cùng đã khiến ông phẫn chí, có lúc tưởng chừng phát điên phát dại. Một nhân cách lớn và một tài năng lớn như Tú Xương lẽ nào lại chịu "tan nát với cỏ cây"?
Tú Xương đã, không phải "nhả ngọc phun châu" mà nhả đạn ra ngoài miệng bắn phá cái cuộc đời xấu xa bẩn thỉu đang diễn ra xung quanh ông. Ông đã trút vào văn thơ tất cả những nỗi ưu uất của lòng mình. Mải sống, mải chơi, mải vẫy vùng và "bắn phá", Tú Xương có lẽ không hề nghĩ đến cái thành quả, cái "sự nghiệp" đích thực của chính ông. Ông đã nói và nói thật rằng : Một việc văn chương thôi cũng nhảm Trăm năm thân thế có ra gì!
Trái với cái ý nghĩ tuyệt vọng đó, lịch sử đã xác nhận: Thành quả lớn nhất của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX thuộc về dòng văn chương hiện thực - trữ tình - trào phúng với hai nhà thơ lỗi lạc: Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Về nội dung, thơ Tú Xương mang tính chất hiện thực cao độ, phản ánh cả một xã hội "kẻ chợ" (thành phố Nam Định) với đủ mọi hạng người, và phản ánh sự suy đồi của nền đạo đức luân lí trong thời buổi giao thời ấy.
Thơ văn Tú Xương cũng khắc hoạ được hình tượng một "nhân vật của thời đại". Đó là bản thân Tú Xương : một nhân vật có tâm hồn cao đẹp và lãng mạn, có phẩm cách, tài năng xuất chúng nhưng tiếc thay lại chưa tìm được cho mình một lí tưởng chân chính, rốt cuộc trở thành một nhân vật bi kịch. Không ở đâu "cái tôi" được miêu tả một cách sắc nét và đầy cá tính như trong thơ văn Tú Xương.
Đó chính là " sự gặp gỡ không hẹn mà nên" giữa thơ Tú Xương với các trường phái văn học phương Tây. Thơ văn Tú Xương cũng hàm chứa những tình cảm vô cùng sâu sắc: Những nối ưu tư với số phận của đất nước, với nền văn học và đạo đức của dân tộc, với những thiên tai, với muôn ngàn cảnh khổ của con người và nỗi đau đớn dằn vặt khôn xiết kể của chính nhà thơ. Thơ văn Tú Xương còn ghi lại hình ảnh người vợ mà nhà thơ vô cùng yêu quí. Đó là hình ảnh của một phụ nữ Việt Nam điển hình, cho đến nay vẫn khiến chúng ta rung cảm.
Về nghệ thuật, thơ Tú Xương đạt tới đỉnh cao bậc nhất ở thời đại ông. Tú Xương hầu như hoàn toàn chỉ sáng tác thơ nôm. Ông là người khẳng định triệt để giá trị và khả năng to lớn của tiếng Việt. Ông được người đời sau tôn là bậc " thần thơ thánh chữ". Ngôn từ của ông tài tình không kém nữ sĩ Hồ Xuân Hương trước kia nhưng phong phú hơn. Bằng tiếng nói thông thường, bằng những câu cửa miệng của người bình dân, Tú Xương sáng tác những tác phẩm đặc sắc. Đó là tài nghệ của ông mà sau này chỉ có Nguyễn Bính sánh được.
Tính chất trào phúng vốn có nguồn gốc sâu xa trong bản tính của con người Việt Nam, đến Tú Xương đã được sử dụng triệt để và tung hoành như một lợi khí sắc bén. Tiếng cười trong thơ Tú Xương mạnh mẽ, luôn tạo nên những "Cú chết bất ngờ" cho kẻ nào bị ông đả kích. Tú Xương, cũng như Vũ Trọng Phụng sau này, có biệt tài đưa những mảng hiện thực gần như trần trụi của cuộc sống vào trong thơ văn, vậy mà lại tạo ra được những tác phẩm hay đến mức thần tình.
Tú Xương mất đã gần 90 năm, vậy mà văn thơ của ông đối với chúng ta hôm nay vẫn gần gũi, vẫn sống động vô cùng. Nỗi đau đời, những trăn trở riêng chung, tiếng cười của ông và bút pháp tài tình của ông thể hiện trong hàng trăm tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại (thơ, phú, văn tế, ca trù, câu đối, .. ..), tất cả đã đưa ông lên vị trí một trong những nhà thơ lớn nhất của dân tộc.
TP. Hồ Chí Minh tháng 2 - 1996