Lịch sử Quốc Kỳ - Cờ Đỏ Sao Vàng

MinhThy

<marquee behavior="alternate" scrollamount="1"><fo
Joined
Nov 17, 2011
Messages
3,907
Points
113
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.

Lá cờ đỏ sao vàng trong nhiều thập kỷ qua luôn gắn liền với những sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Tháng 7-1940, Hội nghị Xứ ủy Nam kỳ, do đ/c Tạ Uyên - Bí thư Xứ ủy - chủ trì được tổ chức tại nhà bà Lê Thị Lợi (Năm Dẹm) ở xã Tân Hương, huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) nhằm đề ra chủ trương phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Nam kỳ, giành chính quyền về tay nhân dân. Tại hội nghị, có một ý kiến được nêu ra là, cuộc khởi nghĩa cần phải có một lá cờ để tập hợp, hiệu triệu quần chúng xông lên chiến đấu một mất một còn với kẻ thù thực dân xâm lược. Cũng trong hội nghị, có đồng chí nhớ lại, năm 1931, trong một lớp huấn luyện ở trong tù, đ/c Trần Phú - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản VN) - khi đề cập đến triển vọng của cách mạng nước ta, có nói là, sau khi giành được độc lập, sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quốc kỳ sẽ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh ở chính giữa với ý nghĩa là màu đỏ của nền cờ màu biểu tượng cho tính triệt để chiến đấu của cách mạng, ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho khối đại đoàn kết dân tộc, gồm sĩ, nông, công, thương, binh. Sau khi thảo luận, hội nghị Xứ ủy quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của cuộc khởi nghĩa. Sau đó, Xứ ủy phân công cho đ/c Nguyễn Hữu Tiến sáng tác mẫu cờ và những lá cờ đỏ sao vàng được may bí mật tại hiệu may Ba Lễ -một cơ sở cách mạng - ở Sài Gòn.

Đêm 22 rạng 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bùng nổ mãnh liệt. Ở tỉnh Mỹ Tho, cuộc khởi nghĩa nổ ra quyết liệt nhất là tại xã Long Hưng (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Từ trong cao trào khởi nghĩa, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện ở tại đây. Viết về sự kiện này, quyển "Mỹ Tho - Gò Công trong cuộc khởi nghĩa Nam kì (1940)" do Ban Tuyên giáo Tiền Giang xuất bản năm 2001 cho biết: "Ngay trong ngày 23-11-1940, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho được thành lập và tổ chức cuộc mít tinh có hơn 3.000 người tham dự tại đình Long Hưng để ra mắt nhân dân. Lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trên ngọn cây bàng, trước đình Long Hưng". Từ Long Hưng - Mỹ Tho, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay khắp Nam kỳ trong những ngày cuối tháng 11-1940 lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố dã man; nhưng lá cờ đỏ sao vàng luôn hiện hữu trong trái tim nhiệt tình cách mạng của mỗi người, động viên nhân dân ta vững bước trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.

Tháng 5-1941, tại Pắc Bó (Cao Bằng), hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 được triệu tập dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh, hội nghị đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, tiếp tục nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh). Cả Nghị quyết Trung ương 8 và Chương trình hành động của Việt Minh đều ghi là, sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ. Được biết, lá cờ đỏ sao vàng treo tại buổi lễ thành lập Việt Minh hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam tại Hà Nội.

Ngày 16-8-1945 tại Tân Trào (Tuyên Quang), Đại hội Quốc dân được triệu tập. Đại hội đã tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, lập ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng VN do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, quy định Quốc ca là bài "Tiến quân ca" và Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng. Liền sau đó, Hồ Chủ tịch đã gửi thư đến đồng bào cả nước, kêu gọi nhân dân nổi dậy tổng khởi nghĩa, giành chính quyền; trong đó có đoạn: "Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!". Ngày 17-8-1945, một lá cờ đỏ sao vàng có diện tích đến 48 mét vuông (6m x 8m) đã được xuất hiện trước tiền sảnh Nhà hát lớn Hà Nội, tạo nên sự phấn khích to lớn của quần chúng thủ đô. Ông Trần Lâm - một trong hai người trực tiếp treo lá cờ đó - kể lại: "Cuộc mít tinh bắt đầu, khi lá cờ của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim được kéo lên thì tôi và anh Nam cũng mở lá cờ đỏ sao vàng từ trên tầng hai buông xuống. Lá cờ to rộng, sáng chói, nổi bật trên cao. Sự kiện này làm đảo lộn tình thế. Tất cả những người dự cuộc mít tinh đều sững sờ. Trong tay họ đang cầm những lá cờ nhỏ tự nhiên giơ lên vẫy vẫy và hò hét như sấm". Như một luồng điện cực mạnh, cuộc tổng khởi nghĩa tháng tám lan nhanh ra cả nước trong rừng cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay khắp nơi.

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2-9-1945), bọn Tàu Tưởng và tay sai (Việt Quốc, Việt Cách) ra sức chống phá chính quyền cách mạng. Bọn chúng đòi ta phải nhân nhượng nhiều điều, trong đó có việc phải thay đổi Quốc kỳ, Quốc ca. Để giữ vững chính quyền nhân dân trong điều kiện nước ta vừa mới giành được độc lập, còn gặp vô vàn khó khăn; Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với Tưởng và nhân nhượng bọn chúng một số việc, như đồng ý cho bọn Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, cung cấp lương thực cho quân Tưởng...); nhưng ta kiên quyết không chấp nhận việc thay đổi Quốc kỳ, Quốc ca. Cuộc đấu tranh này diễn ra không kém phần gay go, quyết liệt. Trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khi bàn đến vấn đề Quốc kỳ thì có nhiều ý kiến tranh luận khá gay gắt. Các đại biểu Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt cho rằng, cờ đỏ sao vàng là cờ của Việt Minh, chưa đại diện cho các đảng, phái ở Việt Nam. Lúc bấy giờ, Hồ Chủ tịch giơ tay xin phát biểu ý kiến. Cụ Nguyễn Văn Tố - Thường trực Quốc hội, điều khiển cuộc họp - mời Bác đến diễn đàn. Chỉ tay vào lá cờ sao vàng được treo trang trọng, rực sáng ở ngay phía sau Đoàn Chủ tịch, với giọng nói ấm áp, đôn hậu, nhưng kiên quyết; Người phát biểu:

Thưa Đoàn Chủ tịch! Thưa các vị đại biểu Quốc hội! Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940. Chính lá cờ đó đã cùng với phái đoàn chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu; từ châu Âu về châu Á; lá cờ đó đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì, trừ 25 triệu đồng bào cả nước thì không ai có quyền đòi thay đổi Quốc kì và Quốc ca. Màu cờ đỏ là tượng trưng cho xương máu của đồng bào ta đấu tranh chống đế quốc, phát xít để có độc lập, tự do. Đó là lá cờ của toàn dân; chứ không phải riêng của bất kỳ một đảng, phái nào...

Sau đó, các đại biểu Quốc hội nhất trí biểu quyết công nhận lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ chính thức của nước Việt Nam độc lập. Bọn tay sai Tưởng, tuy có hậm hực, nhưng đành phải bất lực trước lý lẽ đanh thép của Bác và chính nghĩa của dân tộc. Đến tháng 11-1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta ghi rõ: Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là lá cờ đỏ sao vàng.

Lá cờ đỏ sao vàng luôn đi liền với mỗi chiến công của dân tộc ta. Chiều ngày 7-5-19954, trên nóc hầm của tướng Đờ Caxtơri, lá cờ đó đã tung bay kiêu hãnh, báo hiệu chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước. Trưa ngày 30-4-1975, lá cờ đó lại phất phới tung bay trên nóc phủ Tổng thống ngụy, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, lật đổ hoàn toàn chế độ tay sai đế quốc Mỹ ở Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay hàng chục năm qua và sẽ mãi mãi phất phới, vẫy gọi nhân dân ta tiến lên trên con đường xây dựng đất nước giàu mạnh theo định hướng XHCN. Lá cờ đỏ sao vàng - Quốc kỳ của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam - ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc sẽ trường tồn với non sông gấm vóc Việt Nam.


TS SỬ HỌC NGUYỄN PHÚC NGHIỆP​
 
C

CFC-Sai Gon

Guest
[video=youtube;-IjfUgMvty0]http://www.youtube.com/watch?v=-IjfUgMvty0[/video]
 

MinhThy

<marquee behavior="alternate" scrollamount="1"><fo
Joined
Nov 17, 2011
Messages
3,907
Points
113
Quốc kỳ Việt Nam



Tên Cờ đỏ sao vàng Sử dụng cờ và cờ hiệu dân sự và chính phủ.
Tỷ lệ 2:3
Chấp thuận 5 tháng 9 năm 1945 (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà)
2 tháng 7 năm 1976 (Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
Thiết kế Một ngôi sao vàng lớn chính giữa nền màu đỏ.



Sử dụng Cờ chiến tranh và cờ hiệu hải quân.
Tỷ lệ 2:3
Thiết kế Như trên, với một khẩu hiệu "quyết thắng" màu vàng ở góc trên phía trái.



Quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đại diện cho Việt Nam, là lá Cờ đỏ sao vàng, hình chữ nhật, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.[1] Ý nghĩa là cờ thể hiện trong nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh cùng đoàn kết. [2] Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng màu đỏ nền cờ tượng trưng dòng máu đỏ, màu vàng ngôi sao tượng trưng da vàng, và năm cánh tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.[3]

Lá cờ này xuất hiện lần đầu tiên tại Khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23 tháng 11 năm 1940, và sau đó trở thành lá cờ của Việt Minh. Cờ đỏ sao vàng được lực lượng Việt Minh sử dụng hiệu triệu nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong thời gian Cách mạng Tháng Tám, nhân dân hầu hết các nơi dưới sự lãnh đạo của Việt Minh sử dụng lá cờ này. Riêng tại một số nơi Nam Bộ, Thanh niên Tiền phong là tổ chức chính tham gia giành chính quyền, lúc này đã gia nhập Việt Minh nên tùy từng nơi sử dụng lá cờ đỏ sao vàng, hay sử dụng cả hai lá cờ (của Việt Minh và lực lượng Thanh niên tiền phong) hay sử dụng cờ vàng sao đỏ của Thanh niên tiền phong, hoặc kết hợp với cờ búa liềm của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau khi giành được chính quyền, thì cờ Việt Minh được sử dụng biểu tượng một nước Việt Nam mới đến trước khi công bố độc lập ngày 2.9.1945. Quốc dân Đại hội tại Tân Trào đã quyết nghị lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ của nước Việt Nam độc lập. Sau khi Việt Minh giành được chính quyền, ngày 2 tháng 9 năm 1945, cờ đỏ sao vàng chính thức xuất hiện trong buổi lễ Tuyên bố độc lập tại quảng trường Ba Đình. Nó được công nhận là quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa theo sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 9 năm 1945, và được Quốc hội khoá 1 năm 1946 khẳng định lại.

Trong cuộc họp Quốc hội khóa I quy định cụ thể về quốc kỳ ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi quốc kỳ và quốc ca".. Hiến pháp năm 1946 cũng xác nhận cờ đỏ sao vàng là cờ của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sau năm 1954, Hiến pháp 1959 cũng xác nhận lại cờ đỏ sao vàng là cờ của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước khi Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam thành lập vào tháng 12 năm 1960, thì phong trào đấu tranh cách mạng trong Nam (tiêu biểu là phong trào Đồng khởi) cũng sử dụng cờ đỏ sao vàng. Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Quốc hội Việt Nam khóa VI đã lấy cờ đỏ sao vàng, quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm quốc kỳ của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với vài thay đổi nhỏ so với mẫu cờ nguyên thủy.

(Nguồn wikipedia)
 

MinhThy

<marquee behavior="alternate" scrollamount="1"><fo
Joined
Nov 17, 2011
Messages
3,907
Points
113
Theo dòng lịch sử, lá cờ đại diện cho các chính quyền tại Việt Nam đã có nhiều hình dạng khác nhau.

Hiệu kỳ



Long tinh kỳ nhà Nguyễn từ 1802 đến 1863, và tiếp tục được dùng sau này khi Pháp xâm chiếm Việt Nam cho đến năm 1885

Tại Việt Nam trước đây các nhà cầm quyền đã có các hiệu kỳ thường mang màu phù hợp với "mạng": người mạng kim thì cờ màu trắng, người mạng mộc mang màu xanh, mạng thủy thì màu đen, người mạng hỏa treo cờ màu đỏ, người mạng thổ dùng cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại thì được chọn theo thuyết của học phái Âm Dương Gia nhằm giúp triều đại hợp với một hành đang hưng vượng. Ngoài cờ của triều đại, các nhà vua đều có thể có lá cờ riêng, chỉ để biểu tượng cho hoàng gia.

Có nguồn cho biết Hai Bà Trưng (40-43) và bà Triệu Thị Trinh (222-248) đã dùng cờ màu vàng trong các cuộc khởi nghĩa của họ.


Đại kỳ của vua Minh Mạng

Vua Gia Long (1802-1820) dùng màu vàng cho là cờ tiêu biểu của vương triều mình. Có nguồn cho biết vua Khải Định (1916-1925), khi sang Paris dự hội chợ đấu xảo, cùng các quan Nam triều sáng chế tại chỗ cờ Long Tinh (thêm hai vạch đỏ tượng trưng cho hình rồng vào giữa lá cờ vàng) vì cần thiết cho nghi lễ. Tuy nhiên, từ "cờ long tinh" có lẽ đã xuất hiện từ thời vua Gia Long. Cụ thể, nó có tên Hán "Long Tinh Kỳ" với "Kỳ" là cờ; "Long" là rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng với râu tua màu xanh dương, tượng trưng cho Tiên và đại dương là nơi rồng cư ngụ; "Tinh" là ngôi sao trên trời, cũng là màu đỏ, biểu tượng cho phương Nam và cho lòng nhiệt thành, chấm ở giữa. Tóm lại "Long Tinh Kỳ" là cờ vàng có chấm đỏ viền tua xanh.

Khi Pháp mới tấn công Việt Nam, Việt Sử Toàn Thư (trang 467) ghi "Từ Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi"; có tác giả chú thích rằng cờ này chính là cờ long tinh của nhà Nguyễn.
Có nguồn cho biết[cần dẫn nguồn], năm 1821, vua Minh Mạng còn lấy đại kỳ màu vàng, chung quanh viền kim tuyến (chỉ vàng).

Cờ thời Pháp thuộc



Cờ của chế độ bảo hộ Pháp trên toàn Đông Dương, 1923 - 9 tháng 3 1945

Trong thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền bảo hộ Pháp trên toàn Liên bang Đông Dương sử dụng lá cờ có nền vàng và ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp, từ năm 1923 đến khi bị Nhật lật đổ vào 9 tháng 3 năm 1945.

Tại từng vùng thuộc địa trên lãnh thổ Việt Nam, Nam kỳ dùng quốc kỳ Pháp (còn gọi là cờ tam sắc hay tam tài), Bắc kỳ và Trung kỳ dùng cờ biểu tượng cho vua nhà Nguyễn, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự. Cụ thể nó được treo ở kỳ đài ở quảng trường Phu Văn Lâu, cột cờ đàn Nam Giao ở ngoại ô kinh thành Huế, hay cột cờ Hành Cung ở các địa phương.

Cờ An Nam và những vùng có ảnh hưởng của vua nhà Nguyễn được miêu tả dưới đây theo từng giai đoạn:



  • Long Tinh Kỳ

    1863 đến 1885[4]


  • Đại Nam Kỳ

    1885 đến 1890[4]


  • Đại Nam Kỳ

    1890 đến 1920[4]


  • Cờ long tinh

    1920 đến 9 tháng 3 năm 1945 [4]

Từ khi Pháp tấn công lãnh thổ Việt Nam, cờ long tinh (nền vàng viền lam chấm đỏ) vẫn được dùng như biểu tượng quyền lực của nhà Nguyễn. Đến năm 1885, người Pháp không chấp thuận cho vua Đồng Khánh dùng Long Tinh Kỳ nữa vì lá cờ này thể hiện sự chống đối Pháp (vua Hàm Nghi dùng lá cờ này khi chống Pháp). Triều đình Đồng Khánh dùng lá cờ mới cũng có nền vàng, nhưng màu đỏ thì gồm hai chữ Hán Đại Nam, quốc hiệu của nước Việt Nam lúc đó, và lá cờ có tên Đại Nam Kỳ. Tuy nhiên, những chữ viết trên lá cờ không thực sự giống với các nét chữ Hán của quốc hiệu Đại Nam (大南).

Năm 1890, Vua Thành Thái đã thông qua một nghị định, thay đổi lá cờ với các ký tự Trung Quốc cho một lá cờ mới. Lá cờ vàng ba sọc đỏ được tạo ra và sử dụng lần đầu tiên như là lá cờ quốc gia (Đại Nam Quốc kỳ 1890-1920) - gọi ngắn là Cờ Vàng. Đây là lần đầu tiên thực sự có một lá "quốc kỳ" của người dân, nhằm phản ánh nguyện vọng và hy vọng của người dân, mà không phải chỉ là lá cờ của các hoàng đế. Nó tượng trưng cho sự độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam.


Cột cờ Huế, năm 1924


Sau khi Thành Thái và Duy Tân bị Pháp bắt đi đày, Khải Định lên ngôi theo quan điểm thân Pháp đã thay đổi cờ. Ông dùng cờ nền vàng và một sọc đỏ lớn vắt ngang, và cũng gọi cờ này là cờ long tinh.


Theo một số nguồn, đại kỳ màu vàng cũng có thể đã được treo thường xuyên quảng trường Phu Văn Lâu. Ngoài ra còn có các Tinh Kỳ, cờ Đại Hùng Tinh, cờ Nhật Nguyệt, cờ Ngũ Hành, được dùng để biểu thị nghi vệ Thiên Tử trong các buổi thiết triều, các dịp tế lễ, hay theo loan giá những khi nhà vua xuất cung. Lá cờ ban cho các khâm sai đặc sứ, còn được gọi là cờ Mao Tiết, thì màu sắc tùy nghi, trên mặt thêu họ và chức vụ của vị khâm sai, chung quanh viền ngân tuyến (chỉ bạc). Các cờ xí treo thời này thường có tua viền xung quanh.


Các lá cờ ở nơi trưng bày lễ vật, thành Huế, năm 1924


Lá cờ long tinh trong giai đoạn cuối của thời Pháp thuộc lần đầu được ấn định làm quốc kỳ nước Đại Nam khi Nhật Bản dần thay chân Pháp ở Việt Nam. Dưới áp lực của quân Nhật, Pháp cố duy trì ảnh hưởng của họ bằng cách đàn áp các phong trào chống đối và nâng cao uy tín của các nhà vua Đông Dương. Hoàng đế Bảo Đại nhân cơ hội này đã đưa ra một số cải cách, trong đó có ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam là cờ long tinh; được Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux chấp thuận. Cờ long tinh được dùng trên lãnh thổ Đại Nam (Bắc kỳ và Trung kỳ). Nam kỳ vẫn dùng cờ tam sắc của Pháp.


Cờ quẻ Ly



Cờ quẻ Ly của chính phủ Đế quốc Việt Nam, 9 tháng 3 1945 - 22 tháng 8 1945


Sau khi Đế quốc Nhật đảo chính thực dân Pháp, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập trên danh nghĩa, dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, ông tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Quý Mùi 1883 và Hòa ước Giáp Thân 1884. Chính phủ mới được thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là học giả Trần Trọng Kim. Quốc hiệu được đổi thành Đế quốc Việt Nam và, ngày 8 tháng 5 năm 1945, quốc kỳ được chọn gọi là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu đỏ. Quẻ Ly là một trong 8 quẻ của bát quái và gồm một vạch liền, một vạch đứt và một vạch liền; bề rộng của các vạch này chỉ bằng một phần bề rộng chung của lá cờ.


Cờ quẻ Ly về danh nghĩa là cờ của cả nước Việt Nam, nhưng trong thực tế Nhật vẫn cai trị Nam kỳ. Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, Nam kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Nam Kỳ, trên thực tế, chưa bao giờ dùng cờ quẻ Ly.


Long tinh Đế kỳ


Trong thời kỳ này, Long Tinh Kỳ trở thành lá cờ của hoàng đế, chỉ treo ở Hoàng thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du, gọi là
Long Tinh Đế Kỳ. Long Tinh Đế Kỳ có sửa đổi nhỏ so với Long Tinh Kỳ trước đó: nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ Ly.

(ST)

 

MinhThy

<marquee behavior="alternate" scrollamount="1"><fo
Joined
Nov 17, 2011
Messages
3,907
Points
113
Cờ đỏ sao vàng

Cờ đỏ sao vàng là lá cờ của Việt Minh khi giành chính quyền ở Bắc kỳ tháng 8 năm 1945.
Cuối năm 1940 phong trào kháng chiến chống Thực dân Pháp và Phát xít Nhật diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh Nam kỳ. Từ 21 đến 23 tháng 9 năm 1940, Xứ ủy Nam kỳ họp mở rộng bàn kế hoạch khởi nghĩa. Để tiến tới khởi nghĩa, một vấn đề được đặt ra là cần có một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng.


Lá cờ chính thức của Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) và quốc kỳ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Một giả thuyết cho rằng Nguyễn Hữu Tiến, một nhà cách mạng được giao nhiệm vụ thể hiện, cũng có thuyết cho rằng vợ chồng nhà cách mạng Lê Hồng Phong và Bí thư thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn Nguyễn Thị Minh Khai sáng tạo để kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Sau nhiều lần phác thảo ông đã cho ra lá cờ nền đỏ chính giữa có ngôi sao vàng. Chiều rộng lá cờ bằng 2/3 chiều dài. Ngôi sao ở mẫu nguyên thủy hơi khác ngôi sao trên quốc kỳ Việt Nam hiện nay. 5 đỉnh của ngôi sao nằm trên đường tròn có tâm tại chính tâm lá cờ và bán kính 1/5 chiều dài lá cờ (3/10 chiều rộng). 5 đỉnh còn lại của hình đa giác thể hiện ngôi sao nằm trên đường tròn đồng tâm và bán kính bằng 1/10 chiều dài lá cờ.


Nguyễn Hữu Tiến đã sáng tác một bài thơ về lá cờ:

Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu với cờ thiêng tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì đất nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi Sĩ-công-nông-thương-binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.


Mẫu cờ được ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa gồm Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ... chuẩn y ngay sau đó.

Ngày 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhưng nhanh chóng bị thất bại. Nguyễn Hữu Tiến bị bắt và bị quân Pháp giết ngày 28 tháng 8 năm 1941 cùng các đồng chí của ông như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai. Trước lúc hy sinh, ông đã đề lại bài thơ, trong đó có câu:

Anh em đi trọn con đường nhéCờ đỏ sao vàng sáng tương lai. Giả thuyết thứ hai mới đặt lại vấn đề tác giả quốc kỳ trong thời gian gần đây: ông Lê Quang Sô[5][6]. Trong công văn số 1393/VHTT-BTCM do Thứ trưởng Bộ Văn hóa - thông tin Lưu Trần Tiêu ký ngày 18-4-2001 có ghi: "Tất cả các nguồn tài liệu hiện có tại Cục Lưu trữ Trung ương Đảng, tại Viện Lịch sử Đảng trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh đều không có tài liệu nào chứng minh đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là người vẽ lá cờ Tổ quốc"[5].

Ngày 5 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký sắc lệnh quyết định quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng[7]. Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 2 tháng 3 năm 1946 đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ của nước Việt Nam.

Cờ vàng năm sọc



Quốc kỳ của Nam kỳ Cộng hòa quốc


Sau khi Nhật đầu hàng quân Đồng Minh, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống được cai quản bởi Anh. Anh sau đó đã giao lại cho Pháp tiếp tục quản lý. Chính quyền Pháp đã khuyến khích phong trào Nam kỳ tự trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Nam kỳ Cộng hòa quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) đã thành lập. Từ ngày 1 tháng 6, quốc gia này dùng quốc kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở giữa, gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen nhau. Hình dáng lá cờ biểu tượng cho ba con sông Đồng Nai, Tiềng Giang và Hậu Giang trên đất Nam Kỳ.[8]

Lá cờ này tồn tại được 2 năm cho đến khi chính quyền Nam kỳ quốc giải thể và sát nhập vào Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại ngày 2 tháng 6 năm 1948.

Cờ vàng ba sọc đỏ



Quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa


Theo thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, lá cờ vàng ba sọc do linh mục Trần Hữu Thanh vẽ ra. [9] Thông tin khác cho rằng do họa sĩ Lê Văn Đệ vẽ và đã trình cho vua Bảo Đại chọn trong một phiên họp ở Hồng Kông năm 1948. Nó có nền vàng với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, tượng trưng cho quẻ Càn trong Bát Quái. Có thông tin cho rằng ba sọc đỏ trên lá cờ còn tượng trưng cho Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), và Nam Kỳ (Conchin-China) và Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Linh [10].


Bề ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm sọc bằng một phần ba bề ngang chung của lá cờ. Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chính phủ lâm thời của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ của Quốc gia Việt Nam. Lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ sau này tiếp tục là quốc kỳ chính quyền Quốc gia Việt Nam (1949-1955), và sau đó là quốc kỳ cho suốt thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa (1955-1975).

Hiện nay, lá cờ này không được phép sử dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên lá cờ này qua Chiến dịch Cờ Vàng lại được chính quyền của nhiều thành phố và tiểu bang thuộc Hoa Kỳ công nhận là "Lá Cờ Tự Do và Di Sản" (Heritage and Freedom Flag) và như là biểu tượng cho cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại địa phương[11].

Cờ giải phóng



Lá cờ chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và quốc kỳ của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam


Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, được thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động ở miền Nam Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ trang, chống Mỹ và tiến tới thống nhất đất nước. Tổ chức này sử dụng là cờ có nền gồm nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng. Thực chất đây chỉ là lá cờ đỏ sao vàng có thêm nền xanh dương. Nửa phần đỏ ở trên tượng trưng cho miền Bắc đã độc lập, nửa phần xanh ở dưới tượng trưng cho miền Nam chưa độc lập và đang bị quân đội Mỹ xâm lược và chiếm đóng[cần dẫn nguồn]. Lá cờ này được dùng làm quốc kỳ cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam từ khi thành lập năm 1969 để đối trọng với chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Nó được sử dụng đến khi sáp nhập hai nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền nam Việt Nam. Tác giả vẽ mẫu lá cờ là ông Võ Văn Kiệt (Thường vụ Trung ương Cục) và kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (Chủ tịch Mặt trận khu Sài Gòn - Gia Định).

Chú thích


* ^ Điều 141, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
* ^ http://vietbao.vn/Phong-su/Nguyen-Huu-Tien-hay-Le-Quang-So/40173772/263/
* ^ [1]
* ^ a b c d “Quốc kỳ Việt Nam qua các thời kỳ” (Thứ tư, 03 Tháng 6 2009 09:41).
* ^ a b Nguyễn Hữu Tiến hay Lê Quang Sô?
* ^ Tác giả quốc kỳ: vẫn là dấu chấm hỏi
* ^ Sắc lệnh số 5, ngày 5/9/1945
* ^ Hoàng Cơ Thụy. Việt sử khảo luận. Paris: Nam Á, 2002.
* ^ Cựu thiếu tướng Đỗ Mậu: "Như vậy, người vẽ ra lá cờ vàng ba sọc đỏ là Linh-mục dòng Tên Trần Hữu Thanh, người chấp nhận là Quốc Trưởng Bảo Đại, ông ta là con nuôi của Khâm-sứ Jean Charles." - Tâm Thư , Hoà Trân và Thân Hữu xuất bản, Houston, Mỹ, 1995)
* ^ Học giả Tiziano Terzani: "The three red stripes represent the three regions of Vietnam – Tonkin, Annam, and Cochin-China – but also the Trinity" - The Fall and Liberation of Saigon, St. Martin’s Press, New York, 1976, trang 261
* ^ Michigan, Tiểu bang thứ 12 công nhận Cờ Vàng, 2006

(ST - Theo wikipedia)
 

sasuke53

Member
Joined
Dec 9, 2010
Messages
417
Points
18
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.

Thơ gì nghe lung tung quá chị ơi! Màu đỏ là máu của những chiến sĩ đã hi sinh
 

MinhThy

<marquee behavior="alternate" scrollamount="1"><fo
Joined
Nov 17, 2011
Messages
3,907
Points
113
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi, da của giống nòi
Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh.

Thơ gì nghe lung tung quá chị ơi! Màu đỏ là máu của những chiến sĩ đã hi sinh


Thơ này không phải của chị đâu em. Của "Nguyễn Hữu Tiến" đó ^^. Chị thấy thơ có ý nghĩa mà :saoco:
 

sasuke53

Member
Joined
Dec 9, 2010
Messages
417
Points
18
Em đọc thấy lung tung quá ah`! Có ý nghĩa thật
 
Top Bottom